Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ?
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 506 Lượt xem

Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ?

Điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ như thế nào? Khi có thắc mắc này, Quý độc giả đừng bỏ qua những chia sẻ trong bài viết.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán năm 2010 (gọi tắt là Luật chứng khoán sửa đổi) chỉ điều chỉnh chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ti đại chúng và cũng chỉ mới đưa ra một vài điều kiện mà công ti đại chúng phải thoả mãn để được chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Luật chứng khoán sửa đổi để lại vấn đề trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ cho Chính phủ quy định cụ thể. Việc chào bán chứng khoán riêng lẻ của các tổ chức phát hành không phải là công ty đại chúng vẫn do Luật doanh nghiệp và các quy định pháp luật khác điều chỉnh (Điều 10a).

Như vậy mặc dù Nghị định số 01/2010/NĐ-CP điều chỉnh việc chào bán cổ phần riêng lẻ của các công ty cổ phần và các doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần (trừ doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi) nhưng khi Luật chứng khoán sửa đổi có hiệu lực, phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 01/2010 sẽ bị thu hẹp lại.

Nói cách khác, chỉ các công ty cổ phần phi đại chúng và doanh nghiệp (không phải doanh nghiệp 100% vốn nhà nước) chuyển đổi thành công ty cổ phần phát hành cổ phiếu riêng lẻ mới chịu sự điều chỉnh của Nghị định số 01/2010/NĐ-CP; còn việc phát hành chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng sẽ do Luật chứng khoán sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh. 

Các tổ chức phát hành không phải là công ti đại chúng muốn chào bán chứng khoán riêng lẻ sẽ phải thoả mãn những điều kiện quy định trong Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành (điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ). Những điều kiện này được quy định có phần biệt giữa phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu. 

>>>>> Xem thêm: Chứng khoán là gì?

Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ 

Trước khi Nghị định số số 01/2010/NĐ-CP được ban hành, Việt Nam không có văn bản pháp luật riêng quy định cụ thể về chào bán cổ phiếu riêng lẻ cũng như về các điều kiện doanh nghiệp cần thoả mãn để được chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Những điều kiện này nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, điều chỉnh việc chào bán cổ phiếu của những loại hình doanh nghiệp khác nhau. 

Đối với công ty cổ phần mới thành lập, để được chào bán cổ phiếu, trước hết công ti đó cần phải được Nhà nước thừa nhận bằng văn bản về sự khai sinh hợp pháp của mình. Nói cách khác, công ty phải có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Việc chào bán cổ phiếu để huy động đủ lượng vốn đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh là quyền của các công ty này. Quyền năng này được ghi nhận trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của công ty cổ phần do phòng đăng kí kinh doanh hữu quan cấp.

Theo Luật doanh nghiệp, một trong những nội dung ghi nhận tại giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của công ty cổ phần là số cổ phần, giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần được quyền chào bán. Sau khi công ty cổ phần đã đăng kí kinh doanh hợp lệ và được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, công ti cổ phần đó có quyền chào bán số lượng cổ phiếu được quyền chào bán đã được ghi nhận trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. 

Có thể nói, giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cấp cho một công ty cổ phần mới thành lập chính là bằng chứng cho thấy công ti đó đã đáp ứng đủ điều kiện để được chào bán cổ phiếu riêng lẻ nhằm huy động vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình. Như vậy, điều kiện mà công ti cổ phần mới thành lập phải thoả mãn để được chào bán cổ phiếu riêng lẻ cũng chính là điều kiện để công ty cổ phần phải đáp ứng để được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.) 

Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ti cổ phần, việc đăng kí kinh doanh chỉ được tiến hành sau khi doanh nghiệp đã hoàn tất việc bán cổ phần và tổ chức đại hội cổ đông. Vì vậy, điều kiện để các doanh nghiệp này được chào bán cổ phiếu riêng lẻ rõ ràng phải khác với điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ áp dụng đối với các công ty cổ phần mới thành lập.

Trừ những doanh nghiệp cổ phần hoá thông qua chào bán cổ phiếu ra công chúng (phải thoả mãn những điều kiện về chào bán cổ phiếu ra công chúng), các doanh nghiệp còn lại muốn chào bán cổ phiếu riêng lẻ để trở thành công ty cổ phần (hay muốn cổ phần hoá thông qua chào bán cổ phiếu riêng lẻ), trước hết phải đáp ứng các điều kiện cổ phần hoá và sau đó phải đáp ứng điều kiên minh bạch thông tin trước khi chào bán. 

Các điều kiện cổ phần hoá, theo pháp luật hiện hành, đều liên quan tới vốn của doanh nghiệp nhưng ở những khía cạnh khác nhau.

Một doanh nghiệp muốn cổ phần hoá, trước hết phải là doanh nghiệp không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Những doanh nghiệp này có hình thức tổ chức đa dạng và bao gồm các tổng công ti nhà nước (kể cả ngân hàng thương mại nhà nước); công ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ti do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước, tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ của tập đoàn kinh tế hoặc trong tổ hợp công ty mẹ-con; công ti trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

Hai các doanh nghiệp muốn cổ phần hoá chỉ được tiến hành cổ phần hoá nếu còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp. Nếu giá trị thực tế của doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả thì doanh nghiệp đó không được phép cổ phần hoá mà phải chuyển sang bán hoặc giải thể, phá sản. 

Trường hợp doanh nghiệp muốn cổ phần hoá là đơn vị hạch toán phụ thuộc của các doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hoá, còn phải thoả mãn thêm ba điều kiện: Thứ nhất, đơn vị đó phải có đủ điều kiện hạch toán độc lập; thứ hai, việc cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc này không được gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp; thứ ba, đã xác định trong phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 

Thoả mãn những điều kiện cổ phần hoá nói trên, doanh nghiệp sẽ được các cơ quan có thẩm quyền (Thủ tướng Chính phủ hoặc thủ trưởng của cơ quan chủ quản như: Bộ trưởng, hoặc thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ; hoặc chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tuỳ theo đối tượng cổ phần hoá) quyết định phê duyệt phương án cổ phần hoá.

Như vậy, sau khi quyết định cổ phần hoá được phê duyệt, có thể nói, doanh nghiệp đã thoả mãn được điều kiện cần để chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên trước khi chào bán cổ phiếu riêng lẻ, doanh nghiệp còn phải đáp ứng điều kiện đủ về minh bạch thông tin. 

Điều kiện minh bạch thông tin trước khi chào bán cổ phiếu riêng lẻ đòi hỏi doanh nghiệp chào bán phải công bố thông tin về bản thân doanh nghiệp cổ phần hoá gồm cả kết quả xác định giá trị doanh nghiệp và về phương án cổ phần hoá được duyệt; thông báo công khai về thời gian, địa điểm, hình thức bán cổ phần, điều kiện tham gia mua cổ phần, số lượng cổ phần dự kiến bán và các vấn đề khác có liên quan đến việc bán cổ phần. Những thông tin này phải được công bố trước khi chào bán 20 ngày để đảm bảo nhà đầu tư có được thời gian tìm hiểu cần thiết về loại cổ phiếu sẽ chào bán, từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn. 

Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức công ti cổ phần thông qua chào bán cổ phiếu riêng lẻ cũng phải thoả mãn những điều kiện nhất định.

Thứ nhất, doanh nghiệp phải đáp ứng ba điều kiện cần thiết để được chuyển đổi thành công ty cổ phần.

Một doanh nghiệp muốn chuyển đổi hình thức phải huy động đủ vốn pháp định theo quy định tại giấy phép đầu tư trước khi tiến hành chuyển đổi.

Hai là doanh nghiệp muốn chuyển đổi phải có thời gian hoạt động chính thức tối thiểu ba năm; và trong năm thứ ba liền kề năm chuyển đổi hình thức hoạt động, doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi.

Ba là doanh nghiệp muốn chuyển đổi phải có hồ sơ đề nghị chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Chỉ sau khi đã thoả mãn được những điều kiện này, hồ sơ đề nghị chuyển đổi của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới được Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.

Như vậy sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ chính là bằng chứng cho thấy doanh nghiệp đã đáp ứng điều kiện cần để có thể chào bán cổ phiếu riêng lẻ, chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ti cổ phần. 

Thứ hai, tương tự như trường hợp doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn chào bán cổ phiếu riêng lẻ cũng phải thoả mãn điều kiện đủ về minh bạch thông tin trước khi chào bán cổ phiếu riêng lẻ.

Để đáp ứng điều kiện này, sau khi phương án chuyển đổi doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, doanh nghiệp phải công bố rộng rãi về việc chuyển đổi hình thức doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đảm bảo nhà đầu tư nắm được những thông tin cần thiết về loại cổ phiếu sắp được phát hành từ đó có quyết định đầu tư phù hợp với nhu cầu và chiến lược đầu tư của mình. 

Hiện nay, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP dành riêng một điều khoản, quy định cụ thể về điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ. 

Thứ nhất, chủ thể chào bán cổ phần riêng lẻ phải là công ti cổ phần (trừ các công ty đại chúng) và các doanh nghiệp (trừ các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước) chuyển đổi thành công ty cổ phần.

Thứ hai quyết định chào bán cổ phần riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được của doanh nghiệp dự định chào bán cần được chấp thuận bởi đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên, hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc chủ doanh nghiệp (tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp).

Doanh nghiệp phát hành cần phải xác định rõ trong phương án chào bán về đối tượng được chào bán và phải giới hạn số lượng nhà đầu tư được chào bán không lớn hơn 100 đồng thời đặt ra yêu cầu hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong thời hạn tối thiểu là một năm kể từ khi kết thúc đợt chào bán. Nếu tổ chức phát hành dự định chào bán cho các đối tác chiến lược thì cần có tiêu chí để xác định và lựa chọn những đối tác đó trên cơ sở những chuẩn mực luật định về năng lực tài chính, quản trị, và về năng lực kinh doanh…

Thứ ba, doanh nghiệp phát hành phải gửi hồ sơ đăng kí chào bán cổ phần riêng lẻ theo quy định pháp luật tới cơ quan có thẩm quyền trong khoảng thời gian luật định và trước khi dự kiến tổ chức chào bán. 

Thứ , nếu doanh nghiệp phát hành kinh doanh trong lĩnh vực ngành nghề kinh doanh có điều kiện, còn phải thoả mãn thêm các điều kiện quy định trong pháp luật chuyên ngành. 

Ngoài ra, các doanh nghiệp phát hành riêng lẻ, nếu chào bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nước ngoài, còn phải tuân thủ các giới hạn luật định. Và tất cả các doanh nghiệp chào bán riêng lẻ, nếu muốn tổ chức nhiều đợt chào ban riêng lẻ, mỗi đợt phải cách nhau một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật. 

Điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ 

Để được chào bán trái phiếu riêng lẻ, doanh nghiệp phải hội đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. 

Trước tiên, doanh nghiệp đó phải thuộc đối tượng được phép chào bán trái phiếu riêng lẻ, tức phải được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc phải là công ti nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ti cổ phần hoặc phải là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 

Thhai, doanh nghiệp đó phải đáp ứng yêu cầu về thời gian hoạt động kinh doanh tối thiểu. Kể từ khi chính thức bước vào hoạt động cho tới khi thực hiện việc chào bán trái phiếu riêng lẻ, doanh nghiệp phải có thời gian hoạt động ít nhất là một năm. Đây là khoảng thời gian tối thiểu cần thiết để doanh nghiệp có thể sơ bộ chứng minh được thực lực của mình trong thời gian đã qua và tiềm lực của mình trong thời gian sắp tới trong lĩnh vực kinh doanh của mình. 

Thứ ba, doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu tài chính minh bạch, thể hiện ở chỗ doanh nghiệp phải có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán, Thoả mãn được điều kiện này là doanh nghiệp đã chứng tỏ được tính nghiêm túc của việc chấp hành chế độ kế toán và kiểm toán trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Đây là nguồn thông tin đáng tin cậy – bộ phận cấu thành của thông tin cần cung cấp cho nhà đầu tư để giúp nhà đầu tư có thể đánh giá năng lực kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó có quyết định đầu tư thoả đáng. 

Thứ , doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu của pháp luật về năng lực kinh doanh, thể hiện ở số lãi của hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề trước năm phát hành. Với điều kiện này, chỉ doanh nghiệp làm ăn hiệu quả mới được vay vốn thông qua chào bán trái phiếu; những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ không thể có được quyền năng huy động vốn này. Điều kiện này được đặt ra để loại trừ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả tham gia vào quá trình huy động vốn bằng chào bán trái phiếu nhằm ngăn chặn rủi ro tiềm tàng cho nhà đầu tư. 

Thứ năm, doanh nghiệp phải hoạch định được đường đi nước bước cụ thể cần tiến hành để chào bán trái phiếu riêng lẻ, thể hiện chỗ doanh nghiệp có phương án phát hành trái phiếu đã được tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền của doanh nghiệp thông qua. 

Phương án phát hành trái phiếu do doanh nghiệp phát hành đề ra làm cơ sở cho việc chào bán trái phiếu và phải thể hiện được các nội dung cần thiết, giúp nhà đầu tư có thể quyết định nên hay không nên đầu tư vào loại trái phiếu sẽ được chào bán trong mối quan hệ so sánh với các loại trái phiếu doanh nghiệp khác cũng có mặt trên thị trường chứng khoán.

Ví dụ, nội dung của phương án phát hành trái phiếu phải giúp nhà đầu tư xác định được vốn mà mình cho doanh nghiệp vay thông qua việc đầu tư vào trái phiếu của doanh nghiệp sẽ được dùng vào mục đích gì; tổng khối lượng trái phiếu sẽ phát hành; kì hạn trả nợ và mức lãi suất mà mình được hưởng là bao nhiêu, địa điểm bán trái phiếu, thanh toán nợ gốc và lãi trái phiếu, dự kiến nguồn thanh toán gốc và lãi trái phiếu…

Nếu chào bán trái phiếu chuyển đổi, phương án phát hành trái phiếu của doanh nghiệp còn phải thể hiện thêm một vài nội dung khác như tỉ lệ chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu, thời hạn chuyển đổi, biên độ biến động giá cổ phiếu. 

Tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp phát hành trái phiếu và vào loại trái phiếu sẽ được chào bán mà cơ quan có thẩm quyền thông qua phương án phát hành trái phiếu có khác nhau. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cơ quan này là hội đồng quản trị (trường hợp công ty cổ phần), hoặc hội đồng thành viên (trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn) nếu chào bán trái phiếu thường; hoặc đại hội cổ đông của công ty cổ phần trong trường hợp chào bán trái phiếu chuyển đổi. Đối với doanh nghiệp nhà nước (kể cả tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước), phương án chào bán trái phiếu phải được Bộ tài chính chấp thuận. 

>>>>> Xem thêm: Thị trường chứng khoán là gì?

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Công ty TNHH có được lên sàn giao dịch chứng khoán không?

Lên sàn chứng khoán là hình thức mà một công ty lần đầu phát hành chứng khoán ra công chúng sau khi được các sở giao dịch chứng khoán (sàn chứng khoán) cho phép và tổ chức giao...

Đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép thành lập, hoạt động kinh doanh chứng khoán

Đình chỉ hoạt động, thu hồi giấy phép thành lập, hoạt động kinh doanh chứng khoán như thế nào? Cùng tìm hiểu qua bài viết này...

Cơ chế giải quyết tranh chấp về chứng khoán và thị trường chứng khoán

Cơ chế giải quyết tranh chấp về chứng khoán và thị trường chứng khoán như thế nào? Bài viết sẽ có những chia sẻ giúp Quý độc giả làm...

Khái niệm, đặc điểm tranh chấp, giải quyết tranh chấp về chứng khoán và thị trường chứng khoán

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ về : Khái niệm, đặc điểm tranh chấp, giải quyết tranh chấp về chứng khoán và thị trường chứng...

Nội dung pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ về Nội dung pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi