Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thương lượng tập thể
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 491 Lượt xem

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thương lượng tập thể

Thương lượng tập thể được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên theo các nguyên tắc của thị trường và đúng với các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Nhà nước không được can thiệp có tính ép buộc, hành chính không đúng cách vào thương lượng tập thể.

Các trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thương lượng tập thể

Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thương lượng tập thể được quy định tại Điều 74 Bộ luật lao động như sau:

1. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thương lượng tập thể cho các bên thương lượng tập thể. 

2. Xây dựng và cung cấp các thông tin, dữ liệu về kinh tế – xã hội, thị trường lao động, quan hệ lao động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy thương lượng tập thể.

3. Chủ động hoặc khi có yêu cầu của cả hai bên thương lượng tập thể, hỗ trợ các bên đạt được thỏa thuận trong quá trình thương lượng tập thể; trường hợp không có yêu cầu, việc chủ động hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ được tiến hành nếu được các bên đồng ý.

4. Thành lập Hội đồng thương lượng tập thể khi có yêu cầu của các bên thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp theo quy định tại Điều 73 của Bộ luật này. 

Tư vấn về Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong thương lượng tập thể

Thương lượng tập thể được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên theo các nguyên tắc của thị trường và đúng với các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Nhà nước không được can thiệp có tính ép buộc, hành chính không đúng cách vào thương lượng tập thể. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Nhà nước không làm gì mà Nhà nước chỉ ban hành khuôn khổ luật pháp về thương lượng tập thể để các bên tự thực hiện một cách tự nguyện.

Đồng thời, Nhà nước có vai trò và trách nhiệm rất lớn trong việc thúc đẩy thương lượng tập thể tự nguyện. Điều quan trọng là Nhà nước cần xác định rõ những việc cần phải làm, nên làm để thúc đẩy thương lượng tập thể và những việc không được làm vì nếu làm sẽ vi phạm nguyên tắc tự nguyện, quyền tự quyết của các bên trong thương lượng tập thể.

Có thể dễ dàng nhận thấy, những nhiệm vụ được đề cập tại khoản 1 là để tăng cường năng lực cho các bên thương lượng tập thể. Thương lượng tập thể là quá trình không đơn giản, không dễ dàng. Việc pháp luật quy định khuôn khổ pháp lý về thương lượng tập thể mới chỉ là điều kiện cần. Để có thương lượng tập thể thực chất và hiệu quả trên thực tế, điều quan trọng là các bên thương lượng phải có năng lực và kỹ năng cần thiết. BLLĐ quy định việc tăng cường năng lực và kỹ năng cho các bên thương lượng tập thể là một trong những trách nhiệm của Nhà nước. 

Việc tăng cường năng lực và kỹ năng thương lượng tập thể là cần thiết, song trong nhiều trường hợp là chưa đủ để có thương lượng tập thể thực chất và hiệu quả. Để bảo đảm thương lượng tập thể được thực chất và hiệu quả, hơn nữa, các bên thương lượng cần được trang bị, cung cấp những thông tin, dữ liệu cần thiết về kinh tế – xã hội, thị trường lao động, quan hệ lao động… khoản 2 Điều 74 xác định đây là trách nhiệm thứ hai mà Nhà nước cần thực hiện để hỗ trợ, thúc đẩy thương lượng tập thể. 

Ngoài việc tăng cường năng lực, cung cấp thông tin nhằm thúc đẩy, hỗ trợ cho thương lượng tập thể, khoản 3 Điều 74 còn quy định sự hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước cho những thương lượng tập thể cụ thể. Sự hỗ trợ này có thể do Nhà nước chủ động đề xuất hoặc xuất phát từ yêu cầu của cả hai bên thương lượng tập thể cụ thể đó.

Để bảo đảm tính tự nguyện trong thương lượng tập thể, điều luật quy định rõ việc chủ động hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ được tiến hành nếu được các bên đồng ý, tức là các bên có thể từ chối đề nghị hỗ trợ của Nhà nước đối với quá trình thương lượng tập thể của họ. 

Cùng với quy định tại Điều 73 về Hội đồng thương lượng tập thể, những quy định tại Điều 74 đều là những quy định về sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm hỗ trợ, thúc đẩy thương lượng tập thể. Có thể thấy, những biện pháp, hình thức hỗ trợ này phù hợp với nguyên tắc tự nguyện, không can thiệp có tính ép buộc, hành chính của Nhà nước vào quá trình thương lượng tập thể tự nguyện của các bên. Để các bên chấp nhận, sử dụng những sự hỗ trợ này, điều quan trọng là Nhà nước phải bảo đảm chất lượng và hiệu quả của những hình thức, biện pháp hỗ trợ đó.

Chỉ có như vậy, cùng với các biện pháp hỗ trợ khác thông qua quá trình hòa giải và trọng tài khi giải quyết các tranh chấp lao động về thương lượng tập thể thì các biện pháp, hình thức hỗ trợ của Nhà nước mới thực sự thúc đẩy và phát triển thương lượng tập thể – một cơ chế phân phối lợi ích và quản trị quan hệ lao động đặc biệt quan trọng trong kinh tế thị trường.

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào?

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào? Cùng chúng tôi tìm hiểu để có thêm thông tin giải đáp qua bài viết này...

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu?

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu? là thắc mắc được chúng tôi chia sẻ, làm rõ trong bài viết này. Mời Quý vị theo dõi, tham...

Hành vi nào được xem là tiết lộ bí mật kinh doanh?

Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh...

Ai có thẩm quyền ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động?

Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động là văn bản do người sử dụng lao động ban hành nhằm thông báo việc chấm dứt hợp đồng lao động với người lao...

Công ty có phải thông báo trước khi hợp đồng lao động hết thời hạn không?

Từ 1/1/2021, khi Bộ luật lao động 2019 có hiệu lực thi hành, công ty không phải thông báo với người lao động khi hợp đồng lao động hết thời...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi