Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương Lấy ý kiến và ký kết thỏa ước lao động tập thể
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 915 Lượt xem

Lấy ý kiến và ký kết thỏa ước lao động tập thể

Đối với thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, trước khi ký kết, dự thảo thỏa ước lao động tập thể đã được các bên đàm phán phải được lấy ý kiến của toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp. Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp chỉ được ký kết khi có trên 50% người lao động của doanh nghiệp biểu quyết tán thành.

Quy định về Lấy ý kiến và ký kết thỏa ước lao động tập thể 

Điều 76 Bộ luật lao động quy định về Lấy ý kiến và ký kết thỏa ước lao động tập thể như sau:

1. Đối với thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, trước khi ký kết, dự thảo thỏa ước lao động tập thể đã được các bên đàm phán phải được lấy ý kiến của toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp. Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp chỉ được ký kết khi có trên 50% người lao động của doanh nghiệp biểu quyết tán thành.

2. Đối với thỏa ước lao động tập thể ngành, đối tượng lấy ý kiến bao gồm toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng. Thỏa ước lao động tập thể ngành chỉ được ký kết khi có trên 50% tổng số người được lấy ý kiến biểu quyết tán thành. 

Đối với thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp, đối tượng lấy ý kiến bao gồm toàn bộ người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng hoặc toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng. Chỉ những doanh nghiệp có trên 50% số người được lấy ý kiến biểu quyết tán thành mới tham gia ký kết thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp. 

3. Thời gian, địa điểm và cách thức lấy ý kiến biểu quyết đối với dự thảo thỏa ước lao động tập thể do tổ chức đại diện người lao động quyết định nhưng không được làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp tham gia thương lượng. Người sử dụng lao động không được gây khó khăn, cản trở hoặc can thiệp vào quá trình tổ chức đại diện người lao động lấy ý kiến biểu quyết về dự thảo thỏa ước. 

4. Thỏa ước lao động tập thể được ký kết bởi đại diện hợp pháp của các bên thương lượng. 

Trường hợp thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp được tiến hành thông qua Hội đồng thương lượng tập thể thì được ký kết bởi Chủ tịch Hội đồng thương lượng tập thể và đại diện hợp pháp của các bên thương lượng

5. Thỏa ước lao động tập thể phải được gửi cho mỗi bên ký kết và cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Điều 77 của Bộ luật này

Đối với thỏa ước lao động tập thể ngành hoặc thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp thì từng người sử dụng lao động và từng tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thỏa ước phải được nhận 01 bản.. 

6. Sau khi thỏa ước lao động tập thể được ký kết, người sử dụng lao động phải công bố cho người lao động của mình biết. 

7. Chính phủ quy định chi tiết Điều này. 

Bình luận quy định về Lấy ý kiến và ký kết thỏa ước lao động tập thể 

Sản phẩm của quá trình thương lượng đưa ra bản dự thảo thỏa ước lao động tập thể được các bên công nhận có thể coi là quá trình thương lượng thành công. Tuy nhiên, để đi đến chính thức và có giá trị áp dụng, BLLĐ năm 2019 quy định trước khi ký kết, dự thảo thỏa ước phải được lấy ý kiến toàn bộ người lao động hoặc toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng, tùy theo loại hình thỏa ước: 

– Đối với thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, trước khi ký kết, dự thảo thỏa ước đã được các bên đàm phán phải lấy ý kiến của toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp và phải đạt trên 50% người lao động của doanh nghiệp biểu quyết tán thành thì mới được ký kết.

Quy định này rất quan trọng, nó đã trao quyền quyết định cuối cùng cho người lao động và bảo đảm cho nội dung thỏa ước phải phản ánh được nguyện vọng của đa số người lao động, tránh được tình trạng thỏa ước chỉ phản ánh được nguyện vọng của thiểu số hoặc bị người sử dụng lao động can thiệp, thao túng trong quá trình thương lượng để đưa ra các nội dung thỏa ước có lợi hơn cho phía người sử dụng lao động.

Điều này càng có ý nghĩa hơn trong việc bảo đảm quyền lợi cho đa số người lao động trong bối cảnh từ năm 2021, khi BLLĐ cho phép trong doanh nghiệp được thành lập tổ chức của người lao động (bên cạnh tổ chức công đoàn) được tham gia vào quá trình thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể theo quy định. 

– Đối với thỏa ước lao động tập thể ngành, đối tượng lấy ý kiến bao gồm toàn bộ thành viên ban lãnh đạo (quy định tại khoản 2 Điều 173 BLLĐ) của tất cả các tổ chức đại diện người lao động được thành lập theo Chương XIII của BLLĐ tại các doanh nghiệp tham gia thương lương. Thỏa ước lao động tập thể ngành chỉ được ký kết khi có trên 50% tổng số thành viên ban lãnh đạo của tất cả các tổ chức đại diện người lao động được lấy ý kiến biểu quyết tán thành ký kết thỏa ước lao động tập thể.

Với quy định này, khi Chính phủ chưa cho phép tổ chức của người lao động được liên kết ngoài phạm vi doanh nghiệp thì trên thực tế, việc thương lượng, ký kết thỏa ước tập thể ngành bó hẹp ở những ngành có tổ chức công đoàn ngành thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tuy nhiên, khi lấy ý kiến về dự thảo thỏa ước trong phạm vi ngành thì đối tượng có sự mở rộng hơn, do trong các doanh nghiệp tham gia thương lượng ngành có thể có cả tổ chức của người lao động, bên cạnh tổ chức công đoàn cơ sở của doanh nghiệp. 

– Đối với thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp, đối tượng lấy ý kiến do các bên thỏa thuận theo một trong hai cách: (i) Toàn bộ người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng: hoặc (ii) Toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng.

Mỗi cách lựa chọn đều có những hạn chế nhất định, chẳng hạn trong số các doanh nghiệp tham gia thương lượng, nếu một vài doanh nghiệp có quy mô lao động chiếm phần lớn trong tổng số lao động so với các doanh nghiệp còn lại, khi đó nếu lấy ý kiến theo đối tượng là người lao động thì có thể sẽ không phản ánh được hết nguyện vọng của người lao động ở những doanh nghiệp có quy mô lao động nhỏ; tương tự, đối với những doanh nghiệp có nhiều tổ chức đại diện người lao động được thành lập, nếu lấy ý kiến theo số lượng thành viên ban lãnh đạo tổ chức đại diện người lao động thì cũng sẽ không phản ánh hết nguyện vọng của bên tập thể lao động ở những nơi có ít hơn tổ chức đại diện người lao động.

Do đó, việc quy định giao quyền lựa chọn sẽ tạo sự linh hoạt cho các bên trong việc sử dụng phương án lấy ý kiến phù hợp với điều kiện thực tế. Tuy nhiên, dù lựa chọn hình thức nào thì việc ký kết thỏa ước vẫn phải phản ánh được nguyện vọng đa số của bên người lao động, theo đó, BLLĐ có ràng buộc “chỉ những doanh nghiệp có trên 50% số người được lấy ý kiến biểu quyết tán thành mới tham gia ký kết thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp”. 

Về thời gian, địa điểm và cách thức lấy ý kiến biểu quyết đối với dự thảo thỏa ước lao động tập thể, BLLĐ năm 2019 quy định trao quyền cho tổ chức đại diện người lao động quyết định nhưng không được làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp và người sử dụng lao động không được gây khó khăn, cản trở hoặc can thiệp vào quá trình tổ chức đại diện người lao động lấy ý kiến biểu quyết về dự thảo thỏa ước.

Có một vấn đề đặt ra, đó là “tổ chức đại diện người lao động quyết định” là tổ chức nào. Đây là nội dung mà Chính phủ cần phải hướng dẫn rõ theo trách nhiệm được giao tại khoản 7 Điều 76. Căn cứ các nội dung quy định về quyền thương lượng thì ở phạm vi doanh nghiệp, tổ chức đại diện có quyền thương lượng là tổ chức đạt điều kiện theo Điều 68 ở phạm vi cấp ngành, tổ chức có quyền thương lượng là tổ chức công đoàn ngành theo khoản 3 Điều 72, theo đó có thể xác định “tổ chức đại diện quyết định” việc lấy ý kiến về nội dung thỏa ước chính là các tổ chức này. Riêng đối với thỏa ước có nhiều doanh nghiệp tham gia, do có nhiều tổ chức đại diện người lao động trong các doanh nghiệp cùng tham gia nên cách thức quyết định có thể giao quyền cho các tổ chức tự thống nhất, quyết định. 

Về thẩm quyền ký kết thỏa ước lao động tập thể, BLLĐ năm 2019 quy định thỏa ước lao động tập thể được ký kết bởi đại diện hợp pháp của các bên thương lượng; riêng đối với thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp được tiến hành thông qua Hội đồng thương lượng tập thể thì được ký kết bởi Chủ tịch Hội đồng thương lượng tập thể và đại diện hợp pháp của các bên thương lượng. Vấn đề đặt ra là cần xác định đầu là “đại diện hợp pháp của các bên thương lượng”.

Đây là nội dung rất quan trọng, bởi lẽ nếu xác định không đúng có thể dẫn đến thỏa ước lao động bị tuyên bố vô hiệu toàn bộ theo điểm b khoản 2 Điều 86. Do đó, Chính phủ sẽ phải quy định chi tiết điều này. Tuy nhiên, căn cứ các quy định về quyền tham gia | thương lượng của các bên ở phạm vi doanh nghiệp, ở phạm vi ngành và ở phạm vi nhiều doanh nghiệp tham gia có thể xác định: 

– Đối với thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, đại diện ký kết bên người lao động là người đứng đầu ban lãnh đạo của tổ chức đại 

diện người lao động tham gia thương lượng; đại diện ký kết bên người sử dụng lao động là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 

– Đối với thỏa ước lao động tập thể ngành, đại diện ký kết bên người lao động là Chủ tịch công đoàn ngành; đại diện ký kết bên người sử dụng lao động là người đại diện của tổ chức đại diện người sử dụng lao động cấp ngành. 

– Đối với thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp, đại diện ký kết bên người lao động là người đứng đầu ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tham gia thương lượng ở từng doanh nghiệp ký kết thỏa ước; đại diện ký kết bên người sử dụng lao động là người đại diện theo pháp luật của từng doanh nghiệp đủ điều kiện ký kết thỏa ước theo quy định.

Trường hợp được tiến hành thông qua Hội đồng thương lượng tập thể thì thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp được ký kết bởi Chủ tịch Hội đồng thương lượng tập thể và đại diện tham gia ký kết của các bên. 

Về trách nhiệm công khai thỏa ước sau khi ký kết, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thỏa ước được ký kết, người sử dụng lao động tham gia thỏa ước lao động tập thể phải thực hiện công khai thỏa ước bằng cách gửi cho các bên tham gia ký kết, các tổ chức đại diện người lao động còn lại trong doanh nghiệp và cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Ban Quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao) tại nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính biết.

Quy định này là để cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra tính phù hợp của nội dung thỏa ước với quy định của pháp luật, thực hiện việc quản lý, giám sát quá trình thực thi và có căn cứ để xem xét, giải quyết các tranh chấp lao động phát sinh liên quan đến các nội dung thỏa ước. Ngoài ra, Bộ luật cũng quy định việc công bố công khai cho người lao động biết để thực hiện và kiểm tra, giám sát quá trình thực thi, bảo đảm công khai, minh bạch, thúc đẩy xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào?

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào? Cùng chúng tôi tìm hiểu để có thêm thông tin giải đáp qua bài viết này...

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu?

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu? là thắc mắc được chúng tôi chia sẻ, làm rõ trong bài viết này. Mời Quý vị theo dõi, tham...

Hành vi nào được xem là tiết lộ bí mật kinh doanh?

Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh...

Ai có thẩm quyền ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động?

Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động là văn bản do người sử dụng lao động ban hành nhằm thông báo việc chấm dứt hợp đồng lao động với người lao...

Công ty có phải thông báo trước khi hợp đồng lao động hết thời hạn không?

Từ 1/1/2021, khi Bộ luật lao động 2019 có hiệu lực thi hành, công ty không phải thông báo với người lao động khi hợp đồng lao động hết thời...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi