Trang chủ Hệ thống môn học luật chứng khoán
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 704 Lượt xem

Hệ thống môn học luật chứng khoán

Để giúp Quý vị hiểu hơn về Hệ thống môn học luật chứng khoán, chúng tôi thực hiện bài viết này. Mời Quý vị theo dõi:

Xuất phát từ nội dung cơ bản của pháp luật cũng như yêu cầu mang tính chất lí luận, những nhiệm vụ đặt ra cho môn học luật, môn học luật chứng khoán được xây dựng với những nội dung cơ bản sau đây: 

Khái niệm luật chứng khoán 

Chương khái niệm luật chứng khoán cung cấp những kiến thức cơ bản liên quan đến chứng khoán, thị trường chứng khoán thông qua việc nghiên cứu hình thức pháp lí, bản chất kinh tế của chúng khoán cùng với các đặc điểm của nó; hình thái và đặc điểm của thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, chương khái niệm luật chứng khoán cũng là tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề cụ thể cấu thành môn học luật chứng khoán, lí giải sự cần thiết và tính liên kết, hệ thống giữa các chương được đề cập trong giáo trình này. 

Chế định pháp luật về chào bán chứng khoán

Pháp luật chào bán chứng khoán là tổng thể quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động liên quan đến việc tổ chức chào bán chứng khoán mới trên thị trường sơ cấp để có được lượng vốn nhất định theo các mục tiêu định trước. Pháp luật về vấn đề này quy định các loại chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức phát hành với nhà đầu tư.

Phụ thuộc vào hình thức phát hành riêng lẻ, phát hành ra công chúng và do yêu cầu quản lí của Chính phủ mà pháp luật đưa ra các quy định cho phù hợp. Mục đích của pháp luật trong lĩnh vực này nhằm kiểm soát nguồn cung ứng hàng hoá cho thị trường chứng khoán; đảm bảo ban đầu về lợi ích của các nhà đầu tư nói riêng và ổn định kinh tế nói chung, giảm thiểu nguy cơ rủi ro xảy ra trong lĩnh vực huy động vốn bằng phát hành chứng khoán. 

Nói chung, vấn đề chứng khoán được chào bán ra công chúng và quy định về chào bán ra công chúng thường được quan tâm và quản lý chặt chẽ. Các quy định về việc phát hành chứng khoán ra công chúng phụ thuộc vào cơ chế quản lý thị trường chứng khoán. Hiện nay, các quốc gia thường lựa chọn sử dụng một trong hai cơ chế cơ bản: quản lý theo chế độ quản lý chất lượng hoặc quản lí theo chế độ đăng kí. Nội dung cơ bản của việc quản lí theo chất lượng là pháp luật xác định tiêu chuẩn cho tổ chức phát hành.

Đại diện cho các quốc gia quản lý theo mô hình này như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam cũng đã từng lựa chọn phương pháp quản lý theo chất lượng. Biểu hiện cao nhất của chế độ quản lý theo chất lượng là để được chào bán ra công chúng phải có giấy phép phát hành; các quan hệ trong quá trình phát hành, quan hệ giữa tổ chức phát hành với tổ chức bảo lãnh phát hành, giữa các tổ chức bảo lãnh phát hành theo nhóm, giữa tổ chức phát hành với người đầu tư được quy định và giám sát chặt chẽ. Việc quản lý chặt chẽ này được lí giải bởi yêu cầu đảm bảo cho chúng khoán cho thị trường tập trung có chất lượng cao đồng thời cũng đảm bảo những thông tin cần thiết đủ để đánh giá cơ hội đầu tư mà nhà đầu tư dự định thực hiện.

Nội dung cơ bản của quản lí theo chế độ đăng kí là pháp luật không quy định các điều kiện cho chứng khoán phát hành mà lại quy định rất chi tiết về công bố thông tin, công tác hậu kiểm có vai trò cực kỳ quan trọng. Quốc  gia điển hình thức hiện mô hình quản lí chứng khoán theo chế độ đăng kí là Hoa Kỳ, Thái Lan. 

Đối với các chứng khoán phát hành riêng lẻ, thủ tục, điều kiện đơn giản hơn. Phát hành riêng lẻ không đòi hỏi chủ thể phát hành phải công bố thông tin. Các quy định quản lí hình thức phát hành này dưới dạng quản lí vĩ mô thị trường chứng khoán với tư cách là một kênh huy động vốn: đây là luồng vốn được huy động từ việc phát hành. Sự khác biệt này xuất phát từ chính yêu cầu và quy mô của phát hành riêng lẻ so với phát hành ra công chúng; mặt khác đây cũng là phương thức cần thiết để đưa ra những lựa chọn khác nhau cho nhà đầu tư trên các bộ phận của thị trường chứng khoán tổng thể. 

Về chủ thể có quyền phát hành chứng khoán được coi là bộ phận chiếm tỷ lệ cao trong toàn thể các chủ thể tham gia thị trường, có ảnh hưởng quyết định tới bộ phận thị trường sơ cấp. Ở những quốc gia theo hệ thống luật thành văn (Civil Law), quy định về phát hành chứng khoán được ban hành trong luật chứng khoán và kinh doanh chứng khoán.

Ở những nước theo hệ thống luật chung (Common Law), Luật công ti giữ vai trò trọng tâm và bao trùm lên hoạt động phát hành chứng khoán. Có thể nói rằng, luật chứng khoán và luật công ty có mối quan hệ khăng khít với nhau về vấn đề phát hành chứng khoán đặc biệt là phát hành chứng khoán ra công chúng, trong đó quy định việc phát hành, niêm yết, giao dịch, thanh toán và giám sát chứng khoán.

Trong trường hợp này, việc phát hành chịu sự chi phối của luật chứng khoán và việc xin phép phát hành phải do cơ quan quản lý thị trường chứng khoán cho phép. Sau khi phát hành trên thị trường thứ cấp, các chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán theo quy định của luật chứng khoán. Đối với những nước theo hệ luật chung (Liên hiệp Anh, Ấn Độ, Úc), Luật công ti điều chỉnh cả vấn đề phát hành chứng khoán ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Tại những nước này, luật chứng khoán chỉ quy định tới từng lĩnh vực của thị trường chứng khoán mà thôi. 

Pháp luật Việt Nam cũng đặt yêu cầu cụ thể về chứng khoán được phép phát hành bao gồm cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, trái phiếu và các chứng khoán khác. Việc phát hành cũng được quy định riêng cho từng phương thức chào bán ra công chúng và phát hành riêng lẻ. Đối tượng được phép phát hành bao gồm chính quyền trung ương và địa phương; công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ti quản lý quỹ đầu tư. Chế định này giải quyết những vấn đề pháp lý cơ bản nhằm chỉ rõ các loại chứng khoán có thể được phát hành để tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán, các chủ thể được phép phát hành gắn với điều kiện, trình tự, thủ tục cho mỗi phương thức phát hành có thể được lựa chọn. 

Bên cạnh những nội dung liên quan đến các loại chứng khoán, điều kiện và phương thức phát hành được các tổ chức lựa chọn, pháp luật cũng quy định đến đối tượng là công ti đại chúng. Việc đặt ra những quy định về công ty đại chúng xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thị trường, bảo vệ người đầu tư cũng như đảm bảo tính minh bạch của thị trường. Những quy định liên quan đến quản trị công ti, đăng kí chế độ công ti đại chúng, chế độ công bố thông tin, giao dịch chào mua công khai… nhằm giải quyết những mục tiêu này. 

Pháp luật về mô hình tổ chức, hoạt động của thị trường chứng khoán có tổ chức 

Thị trường thứ cấp là nơi diễn ra các giao dịch về chứng khoán đã phát hành tại thị trường sơ cấp. Tuỳ theo mục đích, chất lượng, phương thức hoạt động, thị trường thứ cấp có thể là thị trường tập trung, thị trường phi tập trung, thị trường tự do. Thông thường, pháp luật thị trường chứng khoán tập trung được coi là khâu trung tâm của thị trường chứng khoán thứ cấp. Đối với thị trường phi tập trung, Nhà nước có thể chỉ thực hiện quản lí ở tầm vĩ mô, hoạt động quản lí cụ thể đối với mô hình thị trường này thường do các tổ chức tự quản đảm nhiệm. 

Là bộ phận trung tâm đồng thời cũng là bề nổi của thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán tập trung luôn có tổ chức chặt chẽ và hoạt động tại thị trường trên cơ sở các quy định pháp luật nghiêm ngặt. Để đảm bảo thành công cho thị trường, những quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của thị trường tập trung là một nội dung quan trọng của pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nếu như các bộ phận khác của khung pháp luật thị trường chứng khoán có thể được ghi nhận trong luật chứng khoán hoặc các văn bản pháp luật riêng biệt thì nội dung tổ chức và hoạt động của thị trường tập trung thường được quy định trong luật chứng khoán, kể cả ở những nước có Luật công ty bao trùm. 

Thông thường, những quy định về tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán tập trung thường đề cập tới những nội dung sau: 

– Hình thức pháp lý cho sự tồn tại của thị trường tập trung, trong đó xác định mô hình cho thị trường hoạt động. Thị trường tập trung tuỳ theo quy mô và điều kiện thực tế mà có thể là sở 

giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán; 

– Cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán; 

– Hình thức sở hữu đối với Sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán. Tuỳ theo từng quốc gia cụ thể, thị trường tập trung có thể được hình thành trên cơ sở sở hữu nhà nước, sở hữu thành viên hay sở hữu cổ phần. Những yêu cầu này phải được quy định cụ thể và cũng có thể thay đổi theo điều kiện thực tế; 

– Nhiệm vụ và chức năng hoạt động; 

– Cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật hoạt động của các thành viên cũng như tư cách của các thành viên; 

– Điều kiện cho các loại chứng khoán được phép niêm yết hoặc giao dịch tại thị trường tập trung. Tuỳ theo điều kiện và mức độ phát triển của từng thị trường mà có thể tách bạch hoặc gộp giữa chứng khoán niêm yết, giao dịch: 

– Chế độ tài chính và các vấn đề có liên quan. 

Ở Việt Nam, những nội dung cơ bản thị trường chứng khoán tập trung đã được xác định tương đối cụ thể và có nhiều điểm tương đồng pháp luật các quốc gia khác về vấn đề này. Thị trường chứng khoán tập trung Việt Nam trong thời gian đầu tồn tại dưới hình thức trung tâm giao dịch chứng khoán, là một đơn vị của UBCKNN. Giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ được chuyển sang mô hình sở giao dịch chứng khoán. Nếu trong giai đoạn đầu, đây là mô hình đơn vị sự nghiệp có thu thì xu hướng tất yếu hiện nay là chuyển sang mô hình pháp nhân độc lập. Pháp luật quy định cụ thể nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán. 

Pháp luật về chủ thể kinh doanh chứng khoán

Kinh doanh chứng khoán quyết định sự sôi động và hiệu quả của thị trường. Thông thường, các quốc gia khi quy định về kinh doanh chứng khoán là quy định những vấn đề liên quan tới các đối tượng trực tiếp tham gia vào thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Vì vậy pháp luật về kinh doanh chứng khoán quy định về các tổ chức kinh doanh và làm dịch vụ cho các hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán

Tổ chức kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp thường là thành viên thị trường chứng khoán tập trung. Về thành viên của thị trường chứng khoán có sự quy định khác biệt giữa pháp luật các nước. Đối với các nước có thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Úc, pháp luật cho phép pháp nhân và cá nhân có đủ điều kiện đều được phép tham gia kinh doanh trên thị trường. Đối với các quốc gia khác như Đức, Liên bang Nga, Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, pháp luật chỉ cho phép pháp nhân đủ điều kiện mới được tham gia. Ngay đối với quy định về pháp nhân, pháp luật cũng quy định không giống nhau về vấn đề này mà còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của hệ thống tổ chức tín dụng.

Đối với các quốc gia có hoạt động ngân hàng đa năng, các ngân hàng có thể nhân danh chính mình tham gia kinh doanh chứng khoán; đại diện cho mô hình này là Đức, Pháp. Các quốc gia có hoạt động ngân hàng chuyên doanh, các ngân hàng muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thông qua hệ thống các công ty con; đại diện cho mô hình này là Hồng Kông, Trung Quốc… Mỗi mô hình có những ưu thế và nhược điểm riêng, liên quan đến việc tách bạch hoạt động kinh doanh ngân hàng với kinh doanh chứng khoán; phân tán rủi ro giữa các hoạt động kinh doanh của chủ thể kinh doanh. 

Về nội dung kinh doanh chứng khoán cũng có khác nhau. Có những quốc gia quy định mang tính liệt kê các hình thức kinh doanh nhưng nhiều quốc gia khác lại không quy định cụ thể hoặc có quy định nhưng kèm theo là những quy định mở. 

Việc nghiên cứu cơ cấu, điều kiện thành viên, nội dung kinh doanh chứng khoán ở các quốc gia nhằm tìm ra ưu, nhược điểm của từng mô hình, điều kiện áp dụng chúng trong từng quốc gia, từng giai đoạn cụ thể từ đó có phương án tối ưu. – Đối với Việt Nam, pháp luật quy định rõ chỉ các các loại chủ thể kinh doanh chứng khoán cùng với nội dung nội dung được phép tiến hành cho mỗi loại chủ thể mới là thành viên sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán. Công ty chứng khoán là pháp nhân được thành lập và hoạt động với nội 

giới, tư vấn đầu tư. Công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán là pháp nhân thực hiện hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ti đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, tư vấn đầu tư. 

Ngoài việc quy định các chủ thể tham gia trực tiếp vào thị trường, coi đó là mục đích kinh doanh chính của mình, một đối tượng cũng rất đáng được quan tâm đó là các nhà đầu tư chứng khoán. Pháp luật các nước đều quy định điều kiện tham gia và vấn đề bảo vệ lợi ích của họ. Những quy định này có thể được ghi nhận tại luật chứng khoán hoặc có quốc gia ban hành luật riêng để bảo vệ nhà đầu tư (chẳng hạn như Nhật Bản). Các nguyên tắc điều chỉnh liên quan đến loại chủ thể này có thể ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác như luật đầu tư, bộ luật dân sự, luật thương mại… Nói chung, pháp luật liên quan đến vấn đề này thường điều chỉnh những nội dung sau:  

– Tính công khai của các thông tin liên quan đến chứng khoán và người phát hành chứng khoán, chống giao dịch nội bộ, các chế tài cần thiết nếu vi phạm những quy định đó. 

– Nghĩa vụ phải thông báo của các nhà đầu tư khi đạt tới hoặc vượt quá hoặc dưới giá trị giới hạn trong tỷ lệ cổ phần có quyền biểu quyết của một công ti có chứng khoán niêm yết để tránh tình trạng thâu tóm doanh nghiệp bất hợp pháp. 

– Nghĩa vụ thuế do đầu tư chứng khoán. 

Pháp luật về chủ thể kinh doanh chứng khoán được thể hiện trong hai chương: 

– Pháp luật công ti chứng khoán

– Pháp luật công ty quản lý quỹ và ngân hàng giám sát

Pháp luật về quỹ đầu tư và công ti đầu tư chứng kh

Nhà đầu tư là chủ thể quan trọng trên thị trường chứng khoán, vì vậy pháp luật không chỉ đưa ra những quy định nhằm bảo vệ nhà đầu tư mà còn xác định cách thức đầu tư trên thị trường. Công ti đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán là các hình thức đầu tư có tổ chức mà nhà đầu tư có thể lựa chọn. Pháp luật công ti đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán quy định các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán cùng những điều kiện hình thành, hoạt động của mô hình này. 

Pháp luật về các tổ chức hỗ trợ thị trường 

Các giao dịch trên thị trường chứng khoán luôn có sự tham gia của các tổ chức hỗ trợ thị trường nhằm đảm bảo sự an toàn và thuận tiện cho các chủ thể. Việc tồn tại trong thực tế các tổ chức hỗ trợ như trung tâm thanh toán bù trừ chứng khoán, TTLKCK, tổ chức định mức tín nhiệm… phải dựa trên những cơ sở luật định.

Điều này cũng có nghĩa sự thừa nhận về vai trò, nhiệm vụ cũng như tư cách pháp lý của các tổ chức hỗ trợ thị trường có thể được pháp luật các quốc gia ghi nhận khác nhau hoặc ngay trong một quốc gia có thị trường, các tổ chức này cũng có thể từng bước được hình thành trong những giai đoạn và điều kiện thích hợp. Pháp luật Việt Nam ghi nhận sự tồn tại, vị trí, vai trò của các tổ chức hỗ trợ thị trường có thể coi là ví dụ. 

Trong giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam, do quy mô và tính mới của loại thị trường này nên các hoạt động hỗ trợ thị trường được thực hiện nhưng bởi chính trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay, theo từng bước và do yêu cầu thực tế, luật chứng khoán quy định tương đối đầy đủ về TTLKCK cùng với các tổ chức tài chính trung gian tham gia vào hoạt động đăng kí, lưu kí, thanh toán bù trừ chứng khoán, xác định cơ sở pháp lí cho hệ thống hỗ trợ đồng bộ.

Ngân hàng chỉ định thanh toán, các thành viên lưu kí bao gồm công ty chứng khoán và ngân hàng thương mại được phép thực hiện hoạt động lưu ký chứng khoán tạo thành hệ thống thống nhất giúp cho giao dịch chứng khoán được nhanh chóng, chính xác, chi phí thấp đồng thời cũng là hỗ trợ cho hoạt động quản lí đối với thị trường. 

Chương pháp luật về đăng kí, lưu kí và thanh toán bù trừ chứng khoán của Giáo trình giới thiệu những nội dung này. 

Pháp luật về kinh doanh chứng khoán

Kinh doanh chứng khoán quyết định sự sôi động và hiệu quả của thị trường. Ngay trong khái niệm kinh doanh chứng khoán, pháp luật đã chỉ rõ những hoạt động được coi là hành vi kinh doanh chứng khoán. Điều này có nghĩa chỉ các loại hình luật định mới được coi là hợp pháp và chỉ có các chủ thể kinh doanh chứng khoán mới được phép thực hiện nội dung này. 

Để thực hiện kinh doanh chứng khoán, trước hết cần có quy định về cơ sở pháp lý cho việc xác lập quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với khách hàng, đó chính là quan hệ hợp đồng. Mỗi loại hình kinh doanh chứng khoán sẽ tương ứng với những nội dung cụ thể trong hợp đồng.

Hợp đồng mở tài khoản giữa công ti chứng khoán với khách hàng là cơ sở để thực hiện hợp đồng môi giới chứng khoán; Hợp đồng bảo lãnh phát hành là cơ sở pháp lí để thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành; Hợp đồng tư vấn là cơ sở thực hiện tư vấn đầu tư chứng khoán hoặc tư vấn tài chính hoặc tư vấn pháp luật về chứng khoán; hợp đồng giữa quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ là cơ sở pháp lí để công ty quản lý quỹ thực hiện nhiệm vụ đối với một quỹ đầu tư đại chúng hoặc công ty đầu tư (nếu công ty đầu tư không trực tiếp đầu tư), trên cơ sở đó, công ti quản lý quỹ sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán hoặc thực hiện các hoạt động đầu tư khác; hợp đồng giám sát giữa ngân hàng giám sát với công ti quản lý quỹ và ban đại diện quỹ đại chúng là cơ sở để ngân hàng giám sát thực hiện quyền năng giám sát của mình.

Để bảo đảm quyền lợi cho khách hàng, pháp luật thường quy định nguyên tắc, nội dung chủ yếu cho các chủ thể kinh doanh chứng khoán khi giao kết hợp đồng với khách hàng. Pháp luật còn tiên liệu trước những thoả thuận bất lợi cho khách hàng hoặc trốn tránh trách nhiệm của chủ thể kinh doanh. Đây chính là cơ sở để bảo đảm thực hiện những ràng buộc pháp lí giữa các chủ thể kinh doanh chứng khoán với khách hàng. 

Pháp luật về quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán 

Pháp luật về quản lí đối với thị trường chứng khoán thường được thể hiện qua hai mô hình cơ bản, mỗi quốc gia có thể lựa chọn một mô hình quản lí cho phù hợp. Mô hình 1 có nội dung: quản lý thị trường chứng khoán bao gồm quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán và quản lý của các tổ chức tự quản đối với thị trường chứng khoán.

Mô hình 2 có nội dung: quản lý thị trường chứng khoán là quản lý nhà nước thông qua cơ quan nhà nước, đồng thời quy định cho các tổ chức tự quản được phép hoạt động trong những giới hạn, phạm vi nhất định. Điểm khác cơ bản giữa hai mô hình quản lý thị trường trên là vị trí của các tổ chức tự quản. Đối với mô hình 1, quản lí của tổ chức tự quản được coi là một bộ phận không tách rời nhưng có tính độc lập tương đối so với hoạt động quản lí của cơ quan nhà nước. Đại diện cho mô hình này là Hoa Kỳ. Đối với mô hình 2, Nhà nước đặt các tổ chức tự quản như là một công cụ bổ sung trong tổng hoà các công cụ khác của quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, Việt Nam đang lựa chọn mô hình quản lí thứ hai.

– Yêu cầu quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán cũng thường gắn với mục đích bảo vệ người đầu tư trên cơ sở khả năng gánh chịu rủi ro đã được thông báo. Với những yêu cầu nêu trên, pháp luật về quản lý nhà nước đối với chứng khoán và thị trường chứng khoán thường bao gồm: 

– Xác định địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Cơ quan quản lý nhà nước đối với chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể khác nhau ở từng mô hình bộ máy nhà nước, đó có thể là cơ quan độc lập hoặc kiêm nhiệm trong lĩnh vực chứng khoán. Mặc dù vậy, các cơ quan này phải xác định được điều kiện và chế độ thành viên, yêu cầu của các phiên họp toàn thể, nguyên tắc biểu quyết… Hình thức pháp lí xác định địa vị pháp lí, nội dung hoạt động của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán cũng có sự khác nhau nhất định giữa các quốc gia về hình thức ban hành, số lượng các văn bản điều chỉnh. 

– Xác định nội dung quản lý nhà nước trên thị trường chứng khoán. Mặc dù có thể cơ cấu tổ chức, vị trí pháp lý khác nhau giữa các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán nhưng chức năng cơ bản và nội dung quản lí đều có sự tương đồng. Đó là thẩm quyền xây dựng và ban hành văn bản pháp luật; đề xuất, triển khai thực hiện cơ chế, chính sách phát triển thị trường cho phép hoặc rút giấy phép hoạt động liên quan đến phát hành và giao dịch chứng khoán; quy định những điều kiện, trình tự, nội dung các hoạt động chứng khoán; thực hiện giám sát tuân thủ pháp luật chứng khoán trên thị trường. 

Đối với Việt Nam, trong giai đoạn đầu, từ 11/1996 – 2/2004, cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán với tên gọi UBCKNN là cơ quan độc lập thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Từ năm 2004 đến nay, UBCKNN là cơ quan thuộc Bộ tài chính. 

Pháp luật về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán 

Cũng như mọi quan hệ kinh tế khác, quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán tất yếu sẽ dẫn đến những tranh chấp. Vì vậy, các tranh chấp này cũng phải có những quy định cụ thể về cơ chế giải quyết, cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục giải quyết. Về vấn đề này, tuỳ thuộc vào cơ cấu hệ thống pháp luật các quốc gia mà cơ chế giải quyết tranh chấp có sự khác biệt nhất định. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào việc có phân định loại tranh chấp hay không, có giải quyết tranh chấp theo cơ chế đặc biệt tại các cơ quan giải quyết tranh chấp hay không, hiệu lực của các phán quyết đối với các bên tranh chấp như thế nào… 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Mua nhà vi bằng có làm sổ hồng được không?

Vi bằng không có giá trị thay thế cho hợp đồng được công chứng, chứng thực. Việc mua nhà bằng cách lập vi bằng là không Đúng với quy định của pháp...

Vi bằng nhà đất có giá trị bao lâu?

Hiện nay, pháp luật không có quy định về thời hạn giá trị sử dụng của vi bằng. Tuy nhiên, bản chất khi lập vi bằng được hiểu lập là để ghi nhận sự kiện, hành vi có thật bởi chủ thể có thẩm quyền do Nhà nước quy định và được đăng ký tại Sở Tư...

Mua xe trả góp có cần bằng lái không?

Với hình thức mua xe trả góp, người mua có thể dễ dàng sở hữu một chiếc xe mà không cần có sẵn quá nhiều...

Không có giấy phép lái xe có đăng ký xe được không?

Theo quy định pháp luật hiện hành, người mua xe hoàn toàn có quyền thực hiện các thủ tục đăng ký xe máy và pháp luật cũng không quy định bất kỳ độ tuổi cụ thể nào mới có thể được đứng tên xe. Do vậy, Ngay cả khi bạn chưa có bằng lái, bạn vẫn có thể thực hiện đăng ký xe bình...

Phí công chứng hợp đồng thuê nhà hết bao nhiêu tiền?

Theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 thì việc thuê nhà bắt buộc phải lập thành hợp đồng nhưng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực trừ khi các bên có nhu...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi