Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Dân sự Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật dân sự
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 2417 Lượt xem

Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật dân sự

Luật dân sự là ngành luật được hình thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển của nhà nước và pháp luật. Những quan hệ xã hội do luật dân sự điều chỉnh thuộc các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình là những quan hệ […]

Luật dân sự là ngành luật được hình thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển của nhà nước và pháp luật. Những quan hệ xã hội do luật dân sự điều chỉnh thuộc các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình là những quan hệ xã hội cơ bản, thiết yếu trong đời sống kinh tế – xã hội. Trong mọi thời kỳ, các nhà nước luôn luôn chú trọng hoàn thiện pháp luật dân sự do tính phổ biến và vai trò quan trọng của nó trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. 

 Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự 

Với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, luật dân sự có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân. 

Quan hệ tài sản là những quan hệ xã hội gắn liền và thông qua một tài sản. Tài sản bao gồm trước hết là các vật cụ thể, đang có hoặc được hình thành trong tương lai, ngoài ra còn là những quyền và nghĩa vụ mang nội dụng tài sản (quyền tài sản). Trong các giao dịch dân sự diễn ra hàng ngày, từ việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản, sự chuyển dịch tài sản giữa các cá nhân, tổ chức đến việc thừa kế tài sản, quan hệ tài sản được xác lập và giải quyết trên cơ sở của pháp luật dân sự. Những quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của ngành luật dân sự. 

Quan hệ nhân thân là những quan hệ xã hội phát sinh từ một giá trị tinh thần (giá trị nhân thân) của một cá nhân hay một tổ chức và luôn luôn gắn liền với một chủ thể nhất định. 

Quan hệ nhân thân do nhiều ngành luật điều chỉnh bằng những biện pháp cụ thể của mỗi ngành. Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự bao gồm các quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản và các quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản. Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản là những quan hệ xã hội về những lợi ích tinh thần, tồn tại một cách độc lập, không liên quan đến tài sản, đó là các quyền nhân thân như quyền đối với họ tên, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Những quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản là những quyền nhân thân có thể làm phát sinh những quyền tài sản như quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo. Quyền tài sản này là một loại tài sản theo quy định của pháp luật dân sự (tài sản vô hình), cụ thể như quyền tài sản trong quyền sở hữu trí tuệ. 

Phương pháp điều chỉnh của luật Dân sự

Phương pháp đặc trưng được sử dụng trong luật dân sự là tôn trọng sự bình đẳng, thoả thuận của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Sự bình đẳng của các chủ thể dựa trên cơ sở sự độc lập về mặt tài sản và tổ chức. Việc xác lập và giải quyết những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân chủ yếu do ý chí và vì lợi ích của chính các chủ thể là cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ đó. Vì không có sự ràng buộc về tài sản và tổ chức nên các chủ thể đều có tư cách pháp lý ngang nhau. Nhà nước khuyến khích sự thoả thuận giữa các chủ thể trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Đó là phương pháp bình đẳng, thoả thuận. 

Sự bình đẳng, thoả thuận của các bên trong quan hệ pháp luật dân sự thể hiện qua những nội dung sau: 

– Các chủ thể đều có quyền tự định đoạt, quyết định trong việc xác lập cũng như giải quyết quan hệ pháp luật dân sự. Trong quá trình bàn bạc, thương lượng, mỗi bên có quyền bày tỏ ý chí và bảo vệ lợi ích của mình. Mức độ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên được xác định trên cơ sở thoả thuận. Với ý chí tự nguyện và cùng có lợi, mỗi chủ thể được quyền lựa chọn đối tác, cách thức tham gia và thực hiện các quyền và nghĩa vụ, cùng nhau lựa chọn các biện pháp bảo đảm, hình thức trách nhiệm và phương thức chấm dứt quan hệ. 

– Trong việc giải quyết tranh chấp dân sự, cách thức thông thường và trước hết là các chủ thể thực hiện tự hoà giải, thoả thuận. Toà án, trọng tài chỉ can thiệp giải quyết khi có yêu cầu và khi các bên đã không thể tự hoà giải. Ngay cả khi toà án, trọng tài đã tham gia giải quyết tranh chấp, nếu các bên đạt được sự thỏa thuận về việc giải quyết vụ việc thì toà án, trọng tài cũng chấp nhận sự thỏa thuận đó. 

– Trong trách nhiệm dân sự, bên vi phạm chịu trách nhiệm đối với bên bị vi phạm. Đó là trách nhiệm giữa các chủ thể đối với nhau, hoàn toàn khác với trách nhiệm pháp lý hành chính hay trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người vi phạm pháp luật đối với Nhà nước. Mức độ cụ thể và phương thức thực hiện trách nhiệm dân sự, trước hết cũng do chính các chủ thể thoả thuận trên cơ sở những quy định của pháp luật. 

Từ những phân tích trên có thể hiểu khái niệm luật dân sự Việt Nam – với tư cách là một ngành luật độc lập của Nhà nước ta – là tổng hợp những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân dựa trên cơ sở bình đẳng, thoả thuận của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó. 

– Trong quá trình phát triển của Nhà nước và pháp luật Việt Nam, trên nền pháp luật dân sự đã hình thành nhiều ngành luật mới như luật lao động, luật hôn nhân và gia đình, luật thương mại. Tuy vậy, những ngành luật này vẫn sử dụng nhiều nguyên tắc và quy phạm của pháp luật dân sự.

Nguồn của pháp luật dân sự 

Pháp luật dân sự thể hiện trong hệ thống quy phạm pháp luật thuộc nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định về cơ chế kinh tế của Việt Nam, về sở hữu toàn dân, về mục đích chính sách kinh tế và sự bảo hộ của pháp luật đối với các thành phần kinh tế, các quyền dân sự cơ bản của công dân là những quy định có tính chất nền tảng của pháp luật dân sự. 

Nội dung chủ yếu của pháp luật dân sự Việt Nam tập trung thể hiện trong Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam do Quốc hội thông qua ngày 14-6-2005, có hiệu lực từ 1-1-2006, thay thế Bộ luật dân sự năm 1995. Bộ luật dân sự năm 2005 có 7 phần, 36 chương với 777 điều. 

Bộ Ngoài Hiến pháp và Bộ luật dân sự, nội dung của pháp luật dân sự còn được thể hiện trong nhiều đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan do các cơ quan nhà nước ban hành như Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, Luật doanh nghiệp năm 2005, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật chuyển giao công nghệ năm 2006 v.v… 

Những Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và trong những trường hợp nhất định, một số tập quán quốc tế cũng là nguồn của pháp luật dân sự khi điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. 

Theo nghĩa rộng, pháp luật dân sự bao gồm không chỉ những quy định về địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự mà còn có những quy định về tố tụng dân sự. Nếu Bộ luật dân sự được coi là luật “nội dung” thì Bộ luật tố tụng dân sự được coi là luật hình thức”. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Luật tố tụng dân sự sửa đổi 2011) quy định trình tự thủ tục giải quyết các vụ, việc dân sự phát sinh từ các quan hệ dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự.

Ngoài ra, còn có Luật thi hành án dân sự năm 2008. Trong việc áp dụng pháp luật dân sự, phải tuân thủ quy định về hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật, về nguyên tắc áp dụng luật chung và luật riêng, luật quốc gia và điều ước quốc tế như đã nghiên cứu tại Chương III giáo trình này. Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những những nguyên tắc quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. 

Hệ thống pháp luật dân sự 

Theo truyền thống, hệ thống pháp luật dân sự cũng chia thành 2 phần lớn: phần chung và phần riêng. 

Phần chung quy định về nhiệm vụ, những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự, xác định địa vị pháp lý của các loại chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự và những vấn đề chung nhất của luật dân sự như vấn đề thời hạn, thời hiệu. Những nội dung này được quy định trong Phần Thứ nhất của Bộ luật dân sự, từ Chương I đến Chương IX với 162 điều. 

Phần riêng bao gồm những quy phạm pháp luật được sắp xếp thành các chế định pháp luật điều chỉnh từng mặt, từng lĩnh vực cụ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Từ Chương X, Bộ luật dân sự năm 2005 đề cập đến những chế định chủ yếu sau đây: 

– Tài sản và quyền sở hữu

– Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự

– Thừa kế

– Chuyển quyền sử dụng đất 

– Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Mua nhà vi bằng có làm sổ hồng được không?

Vi bằng không có giá trị thay thế cho hợp đồng được công chứng, chứng thực. Việc mua nhà bằng cách lập vi bằng là không Đúng với quy định của pháp...

Vi bằng nhà đất có giá trị bao lâu?

Hiện nay, pháp luật không có quy định về thời hạn giá trị sử dụng của vi bằng. Tuy nhiên, bản chất khi lập vi bằng được hiểu lập là để ghi nhận sự kiện, hành vi có thật bởi chủ thể có thẩm quyền do Nhà nước quy định và được đăng ký tại Sở Tư...

Mua xe trả góp có cần bằng lái không?

Với hình thức mua xe trả góp, người mua có thể dễ dàng sở hữu một chiếc xe mà không cần có sẵn quá nhiều...

Không có giấy phép lái xe có đăng ký xe được không?

Theo quy định pháp luật hiện hành, người mua xe hoàn toàn có quyền thực hiện các thủ tục đăng ký xe máy và pháp luật cũng không quy định bất kỳ độ tuổi cụ thể nào mới có thể được đứng tên xe. Do vậy, Ngay cả khi bạn chưa có bằng lái, bạn vẫn có thể thực hiện đăng ký xe bình...

Phí công chứng hợp đồng thuê nhà hết bao nhiêu tiền?

Theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 thì việc thuê nhà bắt buộc phải lập thành hợp đồng nhưng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực trừ khi các bên có nhu...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi