Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tiến trình hình thành Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới
  • Thứ bẩy, 13/05/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 655 Lượt xem

Tiến trình hình thành Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới

Việc cấp bằng độc quyền sáng chế được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, đặc biệt vào thế kỷ XIX, một loạt các nước ban hành luật để bảo hộ bằng độc quyền sáng chế cho các sản phẩm trí tuệ có tính mới, tính sáng tạo và áp dụng được vào sản xuất tạo ra hàng hóa mới.

Sở hữu trí tuệ là một khái niệm được hình thành muộn hơn nhiều so với khái niệm quyền sở hữu tài sản trên thế giới. Vậy Tiến trình hình thành Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới thế nào? Khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết.

Tiến trình hình thành, phát triển Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới

Vào năm 1974, lần đầu tiên có khái niệm về bằng độc quyền sáng chế tại Venice. Bằng độc quyền sáng chế ghi nhận sự sáng tạo của cá nhân là người tạo ra giải pháp kỹ thuật. Về bằng độc quyền sáng chế, vào thế kỷ thứ 17 tại nước Anh đã ban hành Đạo luật về Đặc quyền vào năm 1642, là văn bản pháp luật đầu tiên quy định điều kiện cấp bằng độc quyền cho giải pháp kỹ thuật đạt tiêu chuẩn là sáng chế. Việc bảo hộ bằng độc quyền sáng chế trong một thời hạn nhất định.

Cũng tại nước Anh, vào năm 1710 một đạo luật có tên là Anne đã được Quốc hội nước này thông qua, quyền tác giả được thừa nhận theo đạo luật này. Quy định quyền của tác giả khi còn sống và quyền của người thừa kế của tác giả được độc quyền tái bản sách đã in trong thời hạn 14 năm kể từ khi sách được xuất bản lần đầu tiên. Kế theo nước Anh và nước Pháp có quy định bằng độc quyền sáng chế, quy định quyền của người sáng chế được bảo hộ từ năm 1791.

Bằng độc quyền sáng chế được cấp ở các nước có nền sản xuất công nghiệp phát triển, nhằm tạo điều kiện cho những cá nhân có khả năng bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra các sản phẩm trí tuệ là giải pháp kỹ thuật và giải pháp này được áp dụng vào sản xuất tạo ra hàng hóa, sản phẩm vật chất nhanh hơn, đẹp hơn. Tại Hoa Kỳ, vào năm 1788, Hiến pháp Hoa Kỳ đã quy định bằng độc quyền sáng chế, điều kiện cấp Bằng bảo hộ cho người tạo ra sản phẩm trí tuệ là sáng chế. Nước có nền công nghiệp phát triển như nước Đức, vào năm 1877 luật quy định về bằng độc quyền sáng chế được ban hành.

Đạo luật này nhằm khuyến khích cá nhân có năng lực sáng tạo, có động lực sáng tạo ra những sản phẩm trí tuệ nhằm cải tiến và thay đổi công nghệ trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp của giai đoạn trước đó. BA Việc cấp bằng độc quyền sáng chế được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, đặc biệt vào thế kỷ XIX, một loạt các nước ban hành luật để bảo hộ bằng độc quyền sáng chế cho các sản phẩm trí tuệ có tính mới, tính sáng tạo và áp dụng được vào sản xuất tạo ra hàng hóa mới.

Những nước có Luật Bảo hộ bằng sáng chế độc quyền thời kỳ này phải kể đến là Italia ban hành Luật Bảo hộ sáng chế độc quyền vào năm 1859, Tây Ban Nha vào năm 1878, Thụy Điển vào năm 1884, Bồ Đào Nha vào năm 1896, Canada vào năm 1886, Brazin vào năm 1882, Mêhicô vào năm 1890, Nam Phi vào năm 1896; Ấn Độ và Nhật Bản là hai nước châu Á ban hành Luật Bảo hộ sáng chế độc quyền vào năm 1888. Tuy nhiên, bằng độc quyền sáng chế không phải quốc gia nào cũng coi là một giải pháp tốt nhất trong việc bảo hộ quyền của cá nhân tạo ra các sản phẩm sáng tạo trí tuệ đạt tiêu chuẩn là sáng chế và tác giả được cấp bằng sáng chế độc quyền. Hà Lan là một quốc gia đã hủy bỏ luật về bằng độc quyền sáng chế vào năm 1869 cho đến năm 1910, việc cấp bằng độc quyền sáng chế mới lại được áp dụng tại quốc gia này.

Những giải pháp kỹ thuật được cấp văn bằng độc quyền sáng chế thường dễ bị chiếm đoạt, bởi vì các sản phẩm trí tuệ được công nhận và được cấp bằng độc quyền sáng chế nhưng dễ bị chiếm dụng. Nếu chỉ bảo hộ trong phạm vi một quốc gia, thì nguy Cơ sáng chế bị đánh cắp là không nhỏ, cho nên việc bảo hộ sáng chế cần được mở rộng trên phạm vi quốc tế. Do có nhiều nguy cơ sáng chế bị lấy cắp về nội dung giải pháp được tạo ra bởi con người, cho nên quyền của người sáng tạo ra các giải pháp đó cần được bảo hộ không những trong một quốc gia, mà còn cần được bảo hộ trên phạm vi toàn thế giới.

Vì vậy, Công ước Paris về việc bảo hộ công nghiệp được ban hành vào năm 1883. Công ước này đã là công cụ bảo hộ cho cá nhân tạo ra sáng chế ở một quốc gia còn được bảo hộ tại những quốc gia khác. Cùng với việc mở rộng không gian bảo hộ sáng chế trên phạm vi thế giới là việc các quốc gia công nhận lẫn nhau đối với các giải pháp kỹ thuật là sáng chế, Công ước Berne năm 1886 được thông qua nhằm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật.

Mục đính của các Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật đều có các nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo trong việc bảo hộ các sản phẩm sáng tạo trí tuệ ngang nhau cho công dân nước ngoài trong một quốc gia nhất định.  

Xét về góc độ lịch sử thì sở hữu trí tuệ không phải là khái niệm mới và tĩnh. Kể từ thế kỷ thứ XV, tại Venice, Nhà nước đã ban hành lệnh trao độc quyền cho những người trong lao động đã sáng tạo ra giải pháp kỹ thuật dưới dạng sáng chế. Tính chất độc quyền được thể hiện trong việc chỉ người tạo ra giải pháp kỹ thuật đó mới được độc quyền sử dụng những giải pháp kỹ thuật do mình tạo ra như độc quyền áp dụng giải pháp đó vào sản xuất và quyền đó được bảo hộ theo nguyên tắc không ai được xâm phạm dưới bất kỳ hình thức nào. Sự kiện trên đã được lan truyền nhanh chóng sang các nước như Đức, Pháp, Phần Lan và Vương Quốc Anh trong suốt thế kỷ XVI.

Sự độc quyền sử dụng sản phẩm trí tuệ dưới dạng sáng chế của người tạo ra nó một mặt đã thúc đẩy khả năng tạo ra những chủng loại hàng hóa mới ngày một đẹp hơn, phong phú hơn, mặt khác người độc quyền sử dụng sáng chế sẽ trở nên giàu có nhanh chóng. Ngoài ra, việc sử dụng độc quyền sáng chế đã tạo ra sự cạnh tranh thương trường và từ đó đã nảy sinh những khát vọng và nghị lực sáng tạo ra những giải pháp kỹ thuật có hàm lượng trí tuệ cao hơn.

Thực tế đã chứng minh, trong nền kinh tế thị trường tự do (mà các nước Tây Âu đều tồn tại một thị trường như vậy) việc bảo hộ phát minh, sáng chế đã tạo ra hoàn cảnh xã hội đầy tính khích lệ cho việc sáng tạo, là điều kiện vô cùng quan trọng và không thể thiếu. Như một tất yếu của lịch sử, nhu cầu của nhân loại là sáng tạo, theo đó trí tuệ của con người không ngừng phát triển.

Trong một xã hội có môi trường ưu tiên, khích lệ và trân trọng đối với mọi sự sáng tạo cho dù những sáng tạo đó là nhỏ thì khả năng thích nghi với những điều mới lạ, khát vọng vươn tới cái mới sẽ làm thay đổi trình độ sản xuất thực tại của con người, xã hội đó sẽ có điều kiện phát triển không ngừng. Đặc biệt, những cá nhân có trí lực, óc sáng tạo sẽ đam mê tìm ra những giải pháp kỹ thuật mới, phát hiện ra những quy luật vận động của thế giới tự nhiên, những giải pháp kỹ thuật mới nhằm phục vụ những lợi ích lớn lao của nhân loại.

Trong lĩnh vực phát minh, sáng chế và quyền công bố những sản phẩm trí tuệ, việc bảo hộ các sản phẩm trí tuệ dưới hình thức cấp bằng phát minh, sáng chế, đầu tư thương mại vào các sản phẩm trí tuệ đã tạo ra những điều kiện cần thiết và quan trọng cho những người có khả năng đóng góp vào kho tàng kiến thức chung của nhân loại. Việc bảo hộ này đã trở thành nhu cầu của xã hội. Vào năm 1709, tại Anh quốc Đạo luật bản quyềno của Nữ hoàng Anh Anne được ban hành, Đạo luật này ghi nhận những lợi ích bản quyền của tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm.

Luật bản quyền đã ghi nhận và bảo hộ các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả sáng tạo ra tác phẩm. Những nguyên tắc được quy định trong Luật Bản quyền của Nữ hoàng Anh Anne đã trở thành công cụ bảo hộ quyền của tác giả tác phẩm nhằm chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của tác giả trong lĩnh vực sáng tác văn học, âm nhạc và các sáng tác thuộc lĩnh vực nghệ thuật, khoa học khác.

Ngoài những sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng các tác phẩm văn học, nghệ thuật còn có những đối tượng khác cũng thuộc lĩnh vực sáng tạo trí tuệ của con người. Hiện nay, theo quy định của pháp luật các nước trên thế giới thì những sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng sáng chế đều được bảo hộ. Con người tự mình tạo ra những sản phẩm hàng hóa và sản phẩm văn hóa thông qua quá trình lao động.

Những sản phẩm do con người tạo ra ngày một đa dạng và phong phú. Những sản phẩm đó đã mang lại cho con người những lợi ích vật chất và tinh thần. Nền văn hóa và sự giàu có về mặt vật chất trong xã hội đánh dấu bước phát triển của nhân loại. Ngày nay, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa đã được hiểu một cách rộng rãi và nó có vai trò quan trọng không chỉ đối với nhà sản xuất và người tiêu dùng mà nó còn có nhiều ý nghĩa khác ngoài ý nghĩa kinh tế.

Vậy nhãn hiệu hàng hóa có nguồn gốc lịch sử từ bao giờ? Câu trả lời nằm trong những gì còn lại của nền văn minh nhân loại trong quá khứ dựa trên kết quả của ngành khảo cổ học. Ngành khảo cổ học đã phát hiện ra những đồ dùng bằng gốm do con người tạo ra cách ngày nay khoảng 3.500 năm. Những người thợ thủ công tiền sử đã chạm, khắc các ký hiệu trên những đồ dùng bằng gốm để đánh dấu, phân biệt xuất xứ và nguồn của các đồ dùng bằng gốm đó.

Tuy nhiên, các bộ luật, đạo luật được ban hành để bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cũng mới chỉ xuất hiện cách ngày nay khoảng 350 năm vào đầu thế kỷ XVIII tại Vương quốc Anh. Nếu xét về khoảng cách thời gian thì những giá trị nhân văn và giá trị vật chất do con người sáng tạo ra chỉ được chính con người nhận biết và có cơ chế bảo vệ muộn hơn rất nhiều. Vào đầu thế kỷ XVIII, tại nước Anh, Luật Bảo hộ thương hiệu được ban hành để điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thương mại.

Thương hiệu theo khái niệm bảo hộ của luật hiện đại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ được dùng để phân biệt nguồn gốc hoặc xuất xứ của một tác phẩm hoặc dịch vụ với mục đích phân biệt hàng hóa | hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này với các sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp khác. Theo thuộc tính và đặc điểm riêng của thương hiệu thì thương hiệu còn có chức năng quan trọng trong việc bảo vệ người tiêu dùng, trong việc kết nối một hàng hóa hoặc dịch vụ với nguồn gốc của nó.

Các Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không tĩnh mà luôn được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với những đòi hỏi của đời sống kinh tế – xã hội. Những thay đổi trong công nghệ trên thế giới ngày nay một mặt mang lại cho nhân loại những cơ hội thay đổi vượt bậc và căn bản mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, mặt khác cũng đưa ra những thách thức trong việc tạo ra công nghệ và triển khai công nghệ trên phạm vi toàn cầu.

Thành tựu của khoa học công nghệ mà nền tảng của nó là sự sáng tạo trí tuệ, không ngừng phát triển song song với sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Trong thế kỷ XX con người đã được chứng kiến và sử dụng những sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao và có sức mạnh chinh phục tự nhiên như phát minh ra máy potocoppy, đài thu thanh, máy ghi hình, truyền hình cáp, vệ tinh, máy tính và Internet.

 Những nước phát triển trên thế giới đều là những nước có được các ngành công nghiệp hiện đại và luôn luôn ở thứ bậc của nền đại công nghiệp và sáng tạo. Thực tế ở các nước phát triển đã cho thấy ngành công nghiệp sáng tạo của họ bao giờ cũng có các đạo luật có những quy định khuyến khích sáng tạo bằng cách quản lý việc sao chép các sáng chế, các biểu tượng định dạng và các hình thức sáng tạo khác.

Các đạo luật khuyến khích sáng tạo này luôn điều chỉnh bốn loại “tài sản vô hình” khác biệt là bằng phát minh, sáng chế, thương hiệu, quyền tác giả và bí mật thương mại, được gọi chung là “sở hữu trí tuệ” (Intellectual Property). Căn cứ vào tính chất của những sản phẩm sáng tạo trí tuệ thì các sản phẩm đó có các đặc điểm sau đây:

Sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu những “tài sản” rất đặc biệt, đó là những sản phẩm trí tuệ có tính sáng tạo. Những sản phẩm trí tuệ này có thể mua bán, chuyển giao quyền sử dụng, cho phép sử dụng, tặng cho, để lại thừa kế tương tự như bất kỳ loại hình tài sản hữu hình nào khác.

Theo quy định pháp luật của các nước và của Việt Nam thì chủ sở hữu của các sản phẩm trí tuệ có quyền ngăn cấm việc sử dụng hoặc mua bán trái phép tài sản của mình. Sự khác biệt căn bản giữa sở hữu trí tuệ và các loại sở hữu đối với các loại tài sản khác là gì?

Xét về mặt khách thể thì giữa chúng có sự khác nhau bởi sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu được xác lập đối với các sản phẩm trí tuệ được sáng tạo ra dưới dạng vô hình, do vậy sở hữu trí tuệ không thể xác định được các đặc điểm vật chất của chính nó. Do sở hữu trí tuệ có các đặc điểm đặc biệt như vậy cho nên đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ phải được thể hiện bằng cách thức đặc biệt nào đó.

Các sản phẩm sở hữu trí tuệ được bảo hộ theo quy định pháp luật của từng quốc gia, do vậy phạm vi bảo vệ, các điều kiện và trình tự bảo vệ tại các quốc gia cũng có những điểm cá biệt. Tuy nhiên, do tính chất và đặc điểm chung của các sản phẩm trí tuệ chi phối mà pháp luật của các quốc gia trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở một mức độ nào đó cũng có những nét tương đồng.

Quyền sở hữu trí tuệ so với quyền sở hữu đối với các tài sản hữu hình khác có những yếu tố khác biệt thế nào?

Quyền sở hữu trí tuệ so với quyền sở hữu đối với các tài sản hữu hình khác có những yếu tố khác biệt cơ bản:  

Thứ nhất, sự khác biệt về chủ thể, chủ thể quyền sở hữu tài sản là các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, Nhà nước và các chủ thể khác có quyền sở hữu tài sản mà phần lớn không phụ thuộc vào việc tài sản đó có đăng ký quyền sở hữu hay không. Chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ là những người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, công trình và được thừa nhận là tác giả.

Đối với chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp là người được cấp bằng bảo hộ, chủ sở hữu đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa theo Thỏa ước Madrid đã được chấp nhận bảo hộ tại Việt Nam:

 + Những cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác được chuyển giao một cách hợp pháp quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa;

+ Chủ sở hữu đối với bí mật kinh doanh bao gồm tổ chức, cá nhân đã đầu tư để tạo ra hoặc có thành quả đầu tư là bí mật kinh doanh;

+ Người có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là mọi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất hàng hóa mang chỉ dẫn đó tại lãnh thổ quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương tương ứng, với điều kiện hàng hóa do người đó sản xuất phải bảo đảm uy tín | hoặc danh tiếng vốn có của loại hàng hóa đó;

+ Chủ thể sử dụng tên thương mại được bảo hộ là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh;

 + Người được cấp bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn.

Như vậy, nếu so sánh với chủ sở hữu đối với các tài sản khác (ngoài quyền sở hữu trí tuệ) thì chủ sở hữu các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ không thể là bất kỳ ai mà chủ sở hữu trí tuệ phải thỏa mãn các quy định của hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ;

– Thứ hai, sự khác biệt về khách thể, khách thể của quyền sở hữu tài sản là vật chất hữu hình và các quyền tài sản luôn luôn xác định được bằng số lượng vật chất cụ thể (Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm: Vật, tiến, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền tài sản). Nhưng khách thể của quyền sở hữu trí tuệ là những sản phẩm vô hình, chúng chỉ được vật chất hóa khi con người áp dụng vào sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ.

Thứ ba, sự khác biệt về thời hạn, đối với quyền sở hữu tài sản ngoài các đối tượng sở hữu trí tuệ, pháp luật bảo hộ vồ thời hạn và chỉ khi có các căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu trí tuệ thì quyền sở hữu của một chủ thể đối với tài sản chấm dứt. Trong các giao dịch chuyển giao vật và quyền sở hữu đối với vật thì quyền sở hữu trí tuệ lại được xác lập ở một chủ thể được chuyển giao, trừ trường hợp tài sản là vật bị tiêu hủy.

Đối với quyền sở hữu trí tuệ, pháp luật chỉ bảo hộ trong một thời hạn nhất định mà không bảo hộ quyền đó vĩnh viễn. Sáng chế được bảo hộ 20 năm, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ 5 năm, quyền tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật được bảo hộ trong thời hạn 50 năm sau khi tác giả chết;

Thứ tư, nội dung quyền sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu các tài sản khác cũng bao gồm ba quyền năng gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Tuy nhiên, chủ sở hữu tài sản là vật chất thì khi thực hiện các quyền năng trên không giống như chủ Bằng bảo hộ thực hiện các quyền năng của mình đối với các sản phẩm trí tuệ. Các căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản không thuộc đối tượng sở hữu trí tuệ cũng có sự khác biệt so với các căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với các sản phẩm thuộc quyền sở hữu trí tuệ.

Một yếu tố khác biệt rất đặc thù giữa quyền sở hữu tài sản không thuộc đối tượng sở hữu trí tuệ ở chỗ, tài sản thuộc sở hữu trí tuệ là tài sản vô hình, do vậy nguy cơ bị xâm phạm là rất lớn và việc xác định thiệt hại cũng rất phức tạp. Quyền sở hữu trí tuệ luôn bị đe dọa xâm phạm, có nguy cơ bị xâm phạm rất lớn và thường tập trung vào mặt thương mại của các sản phẩm sở hữu trí tuệ.

Những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ thường diễn ra, đặc biệt đối với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Trong thời đại hiện tại, mọi người đều biết rõ sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ. Khoa học công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong các quan hệ xã hội, trong từng công việc cụ thể của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng…

Ví dụ như sự phát triển nhanh chóng của mạng Internet và những yếu tố kèm theo sự phát triển đó. Những người không có quyền đã “chiếm dụng không gian điều khiển học” và “đạo tặc điều khiển học” nhằm mang lại những lợi ích cho mình mà không phải đền bù một khoản tài sản nào cho việc sử dụng đó.

Những người có hành vi vi phạm đã cố ý chiếm đoạt các nhãn hiệu hàng hóa và đăng ký nhãn hiệu ăn cắp được với tư cách của người có quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa hợp pháp. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật cũng không tránh được những nguy cơ xâm phạm đến quyền tác giả.

Ngày nay, các tiến bộ khoa học và công nghệ đã tạo ra những cơ hội gần như là vô hạn trong việc truyền bá các tác phẩm có bản quyền trên phạm vi toàn thế giới. Khoa học công nghệ đã bị lợi dụng do chính đặc điểm của nó và là một phương tiện để một người không trung thực ăn cắp các tác phẩm chỉ bằng một nút bấm trên bàn phím máy vi tính nối mạng.

Nhận thức được thực trạng đó và nhằm ngăn chặn hữu hiệu thực trạng ăn cắp bản quyền, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO – (World Interlectual Property Organization) đã thông qua Hiệp định về bản quyền WCT và Hiệp định về biểu diễn và thu thanh WPPT của WIPO vào tháng 12 năm 1996 đã đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong nội dung của pháp luật quốc tế trong mấy chục năm qua.

Về lĩnh vực này thì Hoa Kỳ là quốc gia linh hoạt và rất thực tế cho nên đã ban hành Luật Bản quyền thiên niên kỹ thuật số (DMCA). Đạo Luật này đã được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua ngày 12/10/1998, sau đó Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã ký lệnh ban hành đạo Luật này vào ngày 28/10/1998, Luật Bản quyền thiên niên kỹ thuật số của Hoa Kỳ được ban hành nhằm thực hiện các quy định trong hai hiệp định của WIPO là Hiệp định về bản quyền và Hiệp định về biểu diễn và thu thanh.

Qua sự kiện trên, thấy rằng Hoa Kỳ là quốc gia có phản ứng linh hoạt trong lĩnh vực bảo hộ bản quyền phù hợp với các Hiệp định của WIPO về cùng một lĩnh vực. Nội dung của Luật Bản quyền thiên niên kỹ thuật số gồm có 4 phần đều có nội dung liên quan đến Luật thực hiện các Hiệp định về biểu diễn, thu thanh và Hiệp định về bản quyền của WIPO năm 1998.

Những quy định của Luật này nhằm mở rộng việc bảo hộ cho các tác phẩm theo nguyên tắc các Hiệp định của WIPO và phục hồi việc bảo hộ bản quyền trong các điều kiện tương tự cho các tác phẩm từ các nước thành viên của WCT và WPPT. Đạo Luật này còn có những quy định cấm việc làm hỏng các biện pháp công nghệ được đưa vào các phần mềm thương mại nhằm bảo hộ các tác phẩm có bản quyền, đồng thời ngăn chặn việc can thiệp vào hệ thống thông tin quản lý bản quyền.

Ngoài những nội dung trên, Luật bản quyền thiên niên kỹ thuật số còn quy định những giới hạn trách nhiệm vi phạm bản quyền trực tuyến: Người cung cấp dịch vụ chỉ hành động như một kênh cung cấp dữ liệu, truyền thông tin số hóa từ một điểm trên mạng đến một điểm khác theo yêu cầu khách hành.

Trong một đơn vị thời gian, bản sao của tài liệu đã được cung cấp sẵn trên mạng do hành vi của người không có nghĩa vụ cung cấp dịch vụ đó, sau đó tài liệu được truyền cho một khách hàng sử dụng dịch vụ trên mạng theo hướng dẫn của người này, người cung cấp dịch vụ giữ tài liệu lại để đáp ứng các yêu cầu sau đó thay vì lấy lại tài liệu đó từ nguồn ban đầu trên mạng.

Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thông tin trên thế giới đã tạo ra những thách thức mới đối với những nỗ lực nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Cách mạng thông tin bùng nổ trên toàn cầu, theo đó là sự phát triển nhanh chóng của ngành thương mại điện tử, do vậy những yêu cầu bảo vệ các ấn phẩm và các sản phẩm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ dưới dạng nghe nhìn cần phải được đặt ra.

Trên thế giới hiện nay kể cả các nước phát triển và các nước đang phát triển đều có những tiến bộ trong sự thay đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có việc bảo hộ bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và chống cạnh tranh không lành mạnh luôn được quan tâm.

Về lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học các quốc gia đều đã ban hành luật bản quyền nhằm bảo vệ những tác phẩm văn học, nghệ thuật được đưa lên mạng Internet và đã bị sao chép, đánh cắp. Trước những thực trạng đó, một vấn đề cần phải được giải quyết là các quốc gia trên thế giới phải ban hành luật điều chỉnh mạng Internet với luật bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa và nhờ đó mà các nhãn hiệu đã đăng ký không bị sử dụng trái phép.

Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO) tại Điều 2 quy định về sở hữu trí tuệ như một nguyên tắc xác định quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ gồm:

– Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;

– Việc biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các băng âm thanh, đĩa âm thanh và phát thanh, truyền hình;

– Các sáng chế trong tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người;

– Các phát minh khoa học;

– Các kiểu dáng công nghiệp;

– Các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và tên thương mại, chỉ dẫn thương mại;

– Bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. | Những đối tượng được Công ước thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO bảo hộ trong chừng mực nhất định đã không còn phù hợp với yêu cầu của cuộc sống trong mỗi quốc gia và

Công ước WIPO được ký vào ngày 14/7/1967 tại Stockholm. Sau Công ước WIPO, quyền sở hữu trí tuệ đối với những đối tượng là các giống thực vật, mạch tích hợp, bí mật thương mại, thông tin bí mật và các tác phẩm dân gian được quy định bảo hộ.  Những hạn chế của Công ước WIPO đã được khắc phục trở nên hoàn thiện hơn trong Hiệp định TRIPS (các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ). Hiệp định TRIPS là một phần không thể tách rời của Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới được ký tại Marrakesh, Ma Rốc ngày 15/4/1994 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1995).

Hiệp định TRIPS quy định những tiêu chuẩn tối thiểu mà các nước thành viên WIPO phải đáp ứng để trao các quyền về bảo hộ sở hữu trí tuệ và thực thi các quyển này. Những điều kiện tối thiểu riêng biệt đòi hỏi tất cả các nước thành viên phải áp dụng liên quan đến bản quyền và các quyền liên quan như thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và các bí mật thương mại. Hiệp định cũng quy định những tiêu chuẩn để kiểm soát các hành vi chống lại cạnh tranh trong hợp đồng bán giấy phép.

Tại cuộc họp các bộ trưởng ở Brussels tháng 12/1990, do không thống nhất được các cam kết cải cách thương mại nông sản trong tương lai, vòng đàm phán Uruguay bị kéo dài đến 15/12/1993. Ngày 14/4/1994 Văn kiện cuối cùng của vòng đàm phán Uruguay đã được 123 nước tham gia ký kết tại cuộc họp ở Marrakesh (Ma Rốc).

Tuyên bố Marrakesh đã khẳng định kết quả vòng đàm phán Uruguay là nhằm tăng cường nền kinh tế thế giới và thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng việc làm và thu nhập trên toàn thế giới đồng thời thành lập tổ chức thương mại thế giới WTO – World Trade Organization. Tổ chức WTO được thành lập ngày 01/01/1995 là kết quả của vòng đàm phán Uruguay kéo dài trong suốt 8 năm. Sự ra đời của WTO đã góp phần tiếp tục thể chế hóa và thiết lập trật tự mới trong hệ thống thương mại đa phương của thế giới.

Hiệp định TRIPS quy định chi tiết các nghĩa vụ về quy trình cho việc thực thi các quy định về hợp tác và hỗ trợ kỹ thuật giữa các nước tham gia ký kết. Ngoài Hiệp định TRIPS, những chuẩn mực trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ còn được các hiệp định khác điều chỉnh, như Hiệp định thương mại TLT được ký vào năm 1994 về đơn giản hóa và hòa hợp quy trình đăng ký thương hiệu ở nhiều nước thành viên.

Để có sự hiểu đúng và thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở các nước có hiệu quả cao, vào ngày 20/12/1996, Hội nghị ngoại giao của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO về một số vấn đề bản quyền và quyền kề cận đã thông qua hai Hiệp định bản quyền WIPO và Hiệp định về biểu diễn và thu thanh WIPO. Nội dung của Hiệp định bản quyền WIPO có những quy định bảo hộ bản quyền cho các chương trình máy tính, cơ sở dữ liệu và các quyền phân phối, cho thuê và truyền thông đại chúng.

Nội dung của Hiệp định về biểu diễn và thu thanh WIPO có những quy định bảo đảm an ninh cho các biện pháp công nghệ và thông tin và thực hiện các quyền đó trong môi trường kỹ thuật số ngày càng được sử dụng phổ biến trên thế giới. Sau khi các Hiệp định bản quyền WIPO và Hiệp định biểu diễn và thu thanh WIPO được ký kết, các cuộc thảo luận cấp khu vực về vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ đã được triển khai, trong đó có khu vực tự do châu Mỹ đã có sự tham dự của 34 nhà lãnh đạo đại diện cho các quốc gia đã thể hiện cam kết thương mại bình đẳng và mở cửa ở bán cầu Tây vào năm 2005 là Hiệp định TRIPS quy định quyền sở hữu trí tuệ là quyền dẫn chiếu đến tất cả các phạm trù của sở hữu trí tuệ gồm bản quyền và quyền liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, bằng sáng chế (Patent), thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và thông tin bí mật.

Hiệp định TRIPS được xây dựng dựa trên những nguyên tắc trong Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Trong Hiệp định TRIPS có một quy định rất mới về nguyên tắc đối xử tối huệ quốc mà trước đây chưa được quy định trong bất kỳ hiệp định nào thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ”. Hiệp định TRIPS của WTO là một trong bốn Hiệp định phụ lục trong Hiệp định thành lập WTO.

Hiệp định TRIPS quy định việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo hướng bảo đảm áp dụng các tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đang được áp dụng ở các nước, đồng thời những quy định của các nước về sở hữu trí tuệ cũng cần phải phù hợp với những quy định của WIPO. Căn cứ vào nội dung của Hiệp định TRIPS có thể nhận định, cho đến thời điểm hiện nay Hiệp định ” Các nguyên tắc cơ bản của WTO:

– Nguyên tắc thương mại là việc các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ (MFN), có nghĩa là chế độ đãi ngộ ở các lĩnh vực một quốc gia dành cho hàng hóa của các nước bạn hàng này đến mức nào thì cũng phải dành cho hàng hóa của các nước bạn hàng khác chế độ đãi ngộ tương tự, bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử nào. Các quốc gia có chính sách đối xử như thế nào đối với hàng hóa sản xuất trong nước, thì cũng phải đối xử với hàng hóa nhập khẩu từ các nước thành viên WTO;  

– Nguyên tắc tự do hóa thương mại là việc dỡ bỏ hàng rào thương mại thông qua đàm phán song phương và đa phương phù hợp với pháp luật, thể lệ và khả năng cụ thể của từng nước. Cho đến nay, hầu hết các nước đều hưởng ứng nguyên tắc tự do hóa thương mại của WTO để tranh thủ khả năng và cơ hội hợp tác, liên kết kinh tế ở các mức độ khác nhau và tham gia vào phân công lao động quốc tế;

– Nguyên tắc dành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển. Trong điều khoản “Hỗ trợ khả năng” của WTO, các nước phát triển cam kết dành chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) cho các nước chậm phát triển;

– Nguyên tắc bảo hộ thương mại trong nước bằng hàng rào thuế quan;

– Nguyên tắc ổn định thương mại;

– Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh;

– Nguyên tắc không hạn chế số lượng hàng hóa nhập khẩu.

TRIPS của WTO là văn bản có nội dung đầy đủ và toàn diện nhất về sở hữu trí tuệ. Thị Như vậy, sở hữu trí tuệ không còn là vấn đề của một quốc gia mà nó đã trở thành vấn đề lớn của toàn cầu. Sở hữu trí tuệ không còn là cách đặt tên theo nghĩa thông thường của một sản phẩm hay một sự vật nhất định mà là vấn đề phức tạp nằm ở ranh giới giữa nhiều môn khoa học và tự nó đã đòi hỏi sự xác định phạm vi điều chỉnh của pháp luật của mỗi quốc gia và toàn thế giới.

Sở hữu trí tuệ là gì? Một câu hỏi đặt ra không dễ trả lời vì tính đa dạng, phức tạp của chính nội dung và phạm vi khoa học được nghiên cứu và được thể hiện dưới dạng các sản phẩm trí tuệ do con người sáng tạo ra. Theo tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, con người ban đầu chỉ chiếm hữu những vật thể tự nhiên phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển.

Cùng với nền sản xuất hàng hóa trong xã hội, sản xuất tinh thần cũng không thể thiếu được trong mối quan hệ nhất định giữa người với người. Văn hóa sản xuất vật chất là cội nguồn phát sinh văn hóa tinh thần của con người, giữa chúng có sự tác động cho dù trực tiếp hay gián tiếp thì đều có mối quan hệ chặt chẽ trong suốt quá trình tiến hóa tri thức chung của nhân loại.

Do vậy, sở hữu trí tuệ là một hình thức sở hữu độc đáo, đặc biệt xét về đặc tính của nó. Tuy nhiên, sở hữu trí tuệ không tồn tại độc lập với các hình thức sở hữu tài sản khác. Xét về quyền sở hữu trí tuệ thì bên cạnh các quyền nhân thân là quyền tài sản của chủ thể sáng tạo.

Giữa quyền nhân thân và quyền tài sản trong quan hệ về quyền sở hữu trí tuệ luôn luôn tồn tại mối liên hệ hữu cơ và được thể hiện trong mối liên hệ pháp lý giữa quyền và nghĩa vụ: Quyền này là tiền đề của quyền kia và quyền tài sản chỉ có thể xác định cho một chủ thể nhất định được dựa trên căn cứ quyền nhân thân có mối liên hệ trực tiếp với tài sản.

– Trong thời đại ngày nay, các thể chế sở hữu trí tuệ rất đa dạng và được triển khai không những trên quy mô từng quốc gia mà còn được biết đến trên phạm vi toàn thế giới. Nó được điều chỉnh bằng những hiệp ước và công ước quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả.

Pháp luật của các quốc gia và quốc tế đều quy định việc bảo hộ pháp lý đối với các quyền nhân thân và các quyền tài sản của tác giả. Sở hữu trí tuệ được hiểu là kết quả sáng tạo của cá nhân trên cơ sở pháp luật, trong đó quyền của chủ thể sáng tạo được độc quyền trong thời hạn nhất định khi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt sản phẩm trí tuệ do mình tạo ra.

Quyển của chủ sở hữu các sản phẩm trí tuệ mang đầy đủ nội dung của quyền sở hữu, do vậy tác giả còn có quyền ngăn chặn các hành vi xâm phạm hoặc cạnh tranh không lành mạnh tới quyền sở hữu (trí tuệ) của mình. Theo sự liệt kê các đối tượng sở hữu trí tuệ tại Điều 2 Công ước thành lập WIPO thì sở hữu trí tuệ được chia thành hai phần, đó là: Sở hữu công nghiệp và quyền tác giả, quyền kế cận quyền tác giả.

Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn thay đổi, trong đó kỹ thuật không ngừng phát triển và được đổi mới thông qua những sáng kiến, sáng chế, phát minh. Trong thời đại ngày nay, các hoạt

động sở hữu trí tuệ đa dạng, phong phú và đang được triển khai | trên phạm vi rộng không còn bó hẹp trong một quốc gia nào.

Việc pháp luật bảo vệ các sản phẩm trí tuệ được xuất phát từ sự cần thiết để bảo vệ các quyền của con người đã sáng tạo ra các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu sáng công nghiệp.

Pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp tạo môi trường và đảm bảo sự tự do sáng tạo trong việc nghiên cứu khoa học và hoạt động kỹ thuật của con người. Việc quy định những khung pháp lý để bảo đảm cho việc sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không còn là vấn đề của một quốc gia mà là một vấn đề có tính chất toàn cầu không những trong lĩnh vực giá trị của những sản phẩm trí tuệ mà còn cả trong lĩnh vực bảo vệ sản phẩm trí tuệ của con người.

Tuy nhiên, pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp của mỗi quốc gia khác nhau được quy định khác nhau. Sự khác nhau đó dựa trên phạm vi, tính chất đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ, thời hạn và mức độ được bảo hộ.

Nhưng nhìn chung, quyền sở hữu công nghiệp mà các quốc gia quy định đều có chung những đặc điểm là: Khai thác tính chất thương mại hoặc khai thác tính chất hữu ích về mặt công nghiệp. Tính chất thương mại của một giải pháp kỹ thuật được bảo hộ có khả năng áp dụng thương mại. Tính chất thương mại đã được thể hiện ở chính các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa bao gồm các yếu tố để phân biệt được của người tiêu dùng.

Việc bảo hộ tên thương mại của các nước trên thế giới đều dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh độc lập. Tên thương mại là những ký tự có thể đọc được và thường được thể hiện bằng từ ngữ hoặc từ ngữ kèm theo chữ số.

Các yếu tố cấu thành tên thương mại ở dạng mô tả loại hình tổ chức hoặc hình thức tồn tại của chủ thể kinh doanh, mô tả lĩnh vực kinh doanh hoặc mô tả xuất xứ địa lý và thành phần phân biệt được thể hiện dưới tên riêng.

Về tên thương mại có nhiều yếu tố cấu thành và không loại trừ các yếu tố đó được tập hợp theo sáng kiến của nhà kinh doanh như tên khai sinh của cá nhân kinh doanh, tên đầy đủ của một doanh nghiệp.

Vì vậy, tên thương mại của một chủ thể kinh doanh được coi như một quyền liên quan tới tài sản của chủ thể đó. Tên thương mại còn là một nguồn thông tin hữu ích cho người tiêu dùng, cho nên nó phải được bảo hộ theo quy định của pháp luật để ngăn chặn một cách có hiệu quả những hành vi xâm phạm lợi ích của khách hàng. Nói đến quyền sở hữu trí tuệ là nói đến một quan hệ pháp luật về quyền sở hữu.

Quyền sở hữu trước hết thuộc về phạm trù pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về trình tự thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt một khách thể thuộc quyền sở hữu của chủ thể. Căn cứ vào khách thể của quan hệ sở hữu thì quan hệ sở hữu về tài sản (khách thể là vật thể) và quan hệ về sở hữu trí tuệ (khách thể là các sản phẩm trí tuệ).

Quan hệ sở hữu về tài sản được điều chỉnh bằng pháp luật khi nhà nước xuất hiện trong xã hội có tư hữu về tài sản. Có thể kết luận rằng, quan hệ sở hữu trí tuệ luôn đóng vai trò quyết định các mối quan hệ khác trong xã hội và quyết định bản chất của chế độ trong một xã hội nhất định. Suy cho cùng, mọi quan hệ của con người trong xã hội chỉ nhằm mục đích củng cố quyền sở hữu tài sản.

Để có tài sản, con người phải không ngừng tìm những phương thức lao động mới, cải tiến công cụ lao động và giải pháp tạo ra của cải vật chất. Trong quá trình tìm kiếm những giải pháp lao động mới, con người ngày càng hoàn thiện hơn xét trong tổng thể hình thành tự duy của con người theo đó tài sản tạo ra ngày một nhiều, phong phú hơn về chủng loại, đáp ứng nhu cầu mọi mặt về cuộc sống của con người.

Đối với mỗi xã hội khác nhau thì lại có chế độ sở hữu khác nhau và trong cùng một thời điểm lịch sử phát triển của nhân loại cũng tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau. Bản chất giai cấp về quyền sở hữu tài sản được phản ánh trong chính các quy phạm pháp luật quy định về quyền sở hữu của mỗi quốc gia.

->>>> Tham khảo thêm: Thủ tục Đăng ký sở hữu trí tuệ

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Mua nhà vi bằng có làm sổ hồng được không?

Vi bằng không có giá trị thay thế cho hợp đồng được công chứng, chứng thực. Việc mua nhà bằng cách lập vi bằng là không Đúng với quy định của pháp...

Vi bằng nhà đất có giá trị bao lâu?

Hiện nay, pháp luật không có quy định về thời hạn giá trị sử dụng của vi bằng. Tuy nhiên, bản chất khi lập vi bằng được hiểu lập là để ghi nhận sự kiện, hành vi có thật bởi chủ thể có thẩm quyền do Nhà nước quy định và được đăng ký tại Sở Tư...

Mua xe trả góp có cần bằng lái không?

Với hình thức mua xe trả góp, người mua có thể dễ dàng sở hữu một chiếc xe mà không cần có sẵn quá nhiều...

Không có giấy phép lái xe có đăng ký xe được không?

Theo quy định pháp luật hiện hành, người mua xe hoàn toàn có quyền thực hiện các thủ tục đăng ký xe máy và pháp luật cũng không quy định bất kỳ độ tuổi cụ thể nào mới có thể được đứng tên xe. Do vậy, Ngay cả khi bạn chưa có bằng lái, bạn vẫn có thể thực hiện đăng ký xe bình...

Phí công chứng hợp đồng thuê nhà hết bao nhiêu tiền?

Theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 thì việc thuê nhà bắt buộc phải lập thành hợp đồng nhưng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực trừ khi các bên có nhu...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi