Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Dân sự Thực trạng tranh chấp về thừa kế tại Việt nam
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 1872 Lượt xem

Thực trạng tranh chấp về thừa kế tại Việt nam

Người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác nhưng quyền tự định đoạt đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Nếu vượt ra ngoài khuôn khổ đó thì sự định đoạt sẽ bị coi là “xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng của người khác.

Các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống thực tiễn hết sức đa dạng, trong đó các tranh chấp về thừa kế nói chung và tranh chấp về thừa kế theo di chúc nói riêng xảy ra ngày một nhiều.

Vậy thực trạng tranh chấp về thừa kế tại Việt Nam hiện nay diễn ra như thế nào? Khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết sau đây.

Thực trạng tranh chấp thừa kế ở Việt nam

Trước đây, do cuộc sống vật chất còn đơn giản, di sản thừa kế mà người chết để lại chỉ đơn thuần là các vật phẩm tiêu dùng, cao hơn nữa là nhà cửa, đất đai nhưng lúc đó “đất chỉ là nơi ở” nên ít xảy ra tranh chấp giữa những người thừa kế.

Cuộc sống vật chất ngày càng được nâng cao, bên cạnh các tư liệu tiêu dùng di sản thừa kế còn bao hàm cả tư liệu sản xuất có giá trị lớn. Hơn nữa, kể từ khi pháp luật của Nhà nước ta ghi nhận đất có giá trị và quyền sử dụng đất được coi là một quyền tài sản của cá nhân thì quyền sử dụng đất mà người chết để lại đôi khi là một loại di sản có giá trị rất lớn.

Có những trường hợp người chết để lại hàng ngàn mét vuông đất mà chỉ có một người thừa kế quản lý và sử dụng, những người thừa kế khác không hề tranh chấp gì vì lúc đó giá trị không đáng kể. Khi mỗi một mét vuông đất trị giá hàng chục triệu đồng thì tranh chấp xảy ra giữa những người thừa kế khác với người đang quản lý và sử dụng diện tích đất đó là một điều tất yếu.

Mặt khác, ngoài các tài sản hữu hình, di sản thừa kế còn có thể bao hàm các tài sản vô hình. Trong khi đó quy định của pháp luật về thừa kế các tài sản này còn khá chung chung và thiếu sót.

Chẳng hạn, nếu di sản thừa kế là nhãn hiệu hàng hoá hoặc tên thương mại thì không phải ai cũng có thể thừa kế được. Chúng tôi thấy rằng, để có thể duy trì và phát triển nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại thì người thừa kế hưởng nó phải có những điều kiện nhất định.

Khi người chết lập di chúc cho người thừa kế hưởng quyền về nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại nhưng bản thân người được hưởng lại không thể duy trì được vì không có điều kiện thì trong những trường hợp này, chắc chắn những người thừa kế khác có điều kiện duy trì được các quyền sở hữu công nghiệp nói trên sẽ tranh chấp dù di chúc có hiệu lực.

Nguyên nhân tranh chấp phổ biến về thừa kế

1. Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế theo di chúc

Việc tranh chấp này thường phát sinh khi người thừa kế theo luật của người để lại di sản thấy rằng nếu việc thừa kế được phân chia theo di chúc sẽ ảnh hưởng đến quyền hưởng di sản theo luật của họ đồng thời họ cho rằng di chúc mà người chết để lại là di chúc không có hiệu lực pháp luật.

Vì vậy, thực chất của việc tranh chấp này chính là tranh chấp về hiệu lực của di chúc. | Tình trạng này do rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng dưới đây, chúng tôi chỉ xác định một số nguyên nhân chính và thường gặp trong thực tế tranh chấp về thừa kế theo di chúc.

– Do tính xác thực của di chúc

Trong thực tế, những người thừa kế theo luật của người lập di chúc sẽ khởi kiện yêu cầu Toà án xác định di chúc vô hiệu để vụ thừa kế được giải quyết theo pháp luật trong những trường hợp di chúc mà người chết để lại thiếu tính xác thực vì những lý do sau đây:

+ Người lập di chúc không theo đúng trình tự lập di chúc mà pháp luật đã quy định

Nhằm nâng cao tính xác thực của di chúc, pháp luật về thừa kế đã quy định hết sức chặt chẽ về thủ tục lập đối với từng loại di chúc. Những quy định này vừa mang tính hướng dẫn cho các cá nhân khi lập di chúc tuân theo nhằm tăng độ xác thực của di chúc đã lập, tránh những tranh chấp xảy ra về sau, vừa mang tính bắt buộc để di chúc được thừa nhận là có hiệu lực pháp luật.

Vì vậy, nếu việc lập di chúc không tuân theo trình tự và thủ tục đã quy định sẽ là căn cứ để những người có quyền lợi liên quan khởi kiện yêu cầu Toà án xác định di chúc vô hiệu.

Chẳng hạn, nếu di chúc mà người chết để lại là di chúc có công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân nhưng người lập di chúc lại viết sẵn và nhờ người khác mang tới cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân để công chứng, chứng thực sẽ bị coi là không đúng trình tự lập di chúc.

+ Hình thức thể hiện của di chúc không đúng với quy định của pháp luật

Như đã trình bày trong Chương 2 của cuốn sách này, di chúc chỉ bao gồm hai hình thức là: Di chúc bằng văn bản và di chúc miệng. Trong đó, hình thức bằng văn bản của di chúc có thể được thể hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau, thông qua nhiều vật mang tin khác nhau như có thể viết tay, có thể đánh máy và in thành văn bản hoặc sao lưu vào đĩa mềm.

Tuy nhiên, nếu di chúc bằng văn bản được lập theo trình tự di chúc tự lập thì phương tiện thể hiện và vật mang tin phải theo đúng quy định của pháp luật là: viết tay vào giấy. Vì vậy, nếu di chúc mà người chết tự lập để lại là một văn bản đánh máy dù trong đó đã có chữ ký của chính họ thì người có quyền lợi liên quan vẫn có quyền khởi kiện yêu cầu xác định sự vô hiệu của di chúc.

+ Người chứng nhận, chứng thực, người làm chứng di chúc là người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự hoặc là người có quyền và nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung của di chúc, là người thừa kế của người lập di chúc, là cha, mẹ, vợ chồng, con của người thừa kế của người lập di chúc.

– Do người lập di chúc không có năng lực hành vi dân sự

Người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản yêu cầu Toà án xác định di chúc vô hiệu vì cho rằng vào thời điểm di chúc được lập, người lập di chúc không có năng lực hành vi dân sự. Chẳng hạn, vào thời điểm di chúc được lập, người lập di chúc chưa tròn mười lăm tuổi dù di chúc đã có sự đồng ý của cha, mẹ hay người giám hộ của họ.

Ngoài ra, người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc cũng sẽ khởi kiện để tranh chấp về hiệu lực của di chúc nếu thấy rằng người để lại di sản đã lập di chúc vào thời điểm họ chưa tròn mười tám tuổi hay dù họ đã tròn mười tám tuổi nhưng bị mất khả năng nhận thức hoặc thiếu sự minh mẫn, sáng suốt.

– Do thiếu tính tự nguyện của người lập di chúc Người thừa kế theo pháp luật của người để lại di chúc sẽ khởi kiện để tranh chấp về hiệu lực của di chúc nếu thấy rằng người để lại di sản đã lập di chúc đó do bị người khác lừa dối hoặc di chúc được lập trong tình trạng bị người khác đe doạ, cưỡng bức.

– Do việc định đoạt trong nội dung của di chúc là trái pháp luật hoặc vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật

Chúng ta đã biết rằng dù người lập di chúc có đầy đủ năng lực hành vi và hoàn toàn tự nguyện trong việc lập di chúc nhưng di chúc đó vẫn sẽ bị coi là vô hiệu nếu sự định đoạt của họ trái với quy định của pháp luật hoặc không phù hợp với đạo đức xã hội.

Vì vậy, trong những trường hợp này, người thừa kế theo pháp luật sẽ khởi kiện để yêu cầu được chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản liên quan đến phần di chúc vô hiệu vì định đoạt trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.

Người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác nhưng quyền tự định đoạt đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Nếu vượt ra ngoài khuôn khổ đó thì sự định đoạt sẽ bị coi là “xâm phạm đến quyền, lợi ích chính đáng của người khác. Vì vậy, đây là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp giữa những người có quyền lợi chính đáng với những người thừa kế theo di chúc.

Chẳng hạn, những người thừa kế theo luật của người lập di chúc được xác định tại Điều 669 BLDS 2005 tranh chấp với người thừa kế theo di chúc để được hưởng phần di sản theo luật định nếu người lập di chúc đã định đoạt hết tài sản của mình cho những người thừa kế theo di chúc hoặc những người thừa kế theo luật của người lập di chúc khởi kiện yêu cầu được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất nông nghiệp nếu người để lại thừa kế đã lập di chúc cho người khác hưởng thừa kế quyền sử dụng đất đó.

2. Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc

Tranh chấp này xảy ra khi người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của người khác. Người lập di chúc chỉ có quyền định đoạt tài sản mà mình để lại sau khi chết cho những người thừa kế nếu tài sản đó thuộc sở hữu riêng của họ.

Thế nhưng trong thực tế có nhiều trường hợp người lập di chúc đã định đoạt cả phần tài sản của người khác cho người thừa kế. Chẳng hạn, người chồng trước khi chết đã lập di chúc định đoạt toàn bộ tài sản của gia đình hoặc đã định đoạt cả những tài sản mà họ đang thuê hay mượn của người khác cho người thừa kế.

Trong những trường hợp này, đương nhiên người có tài sản đã bị định đoạt sẽ khởi kiện để yêu cầu Toà án xác định phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình và tài sản đó sẽ được tách ra để trả lại cho người có tài sản.

Tình trạng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của một số người thừa kế theo di chúc và đương nhiên sẽ xảy ra tranh chấp giữa họ với nhau. Chúng ta thấy, nếu trong di chúc không có sự phân định tài sản một cách cụ thể cho từng người thừa kế thì sau khi tách phần tài sản của người khác ra, những người thừa kế theo di chúc sẽ hưởng ngang phần nhau đối với khối di sản còn lại nên trong trường hợp này sẽ không có tranh chấp.

Tuy nhiên, nếu người lập di chúc đã định đoạt cho mỗi người thừa kế được hưởng một loại tài sản cụ thể thì vấn đề này sẽ trở nên hết sức phức tạp. Chẳng hạn, nếu người lập di chúc đã xác định: cho người thừa kế thứ nhất hưởng một ngôi nhà, người thứ hai cũng được hưởng một ngôi nhà, người thứ ba hưởng các tài sản khác còn lại.

Nhưng trong đó ngôi nhà mà người thừa kế thứ nhất được hưởng là nhà mà người lập di chúc thuế của người khác. Trong trường hợp này dứt khoát sẽ có tranh chấp giữa người thừa kế thứ nhất với những người thừa kế khác.

Nếu có tranh chấp xảy ra thì có thể xác định ngôi nhà đó là tài sản không còn vào thời điểm mở thừa kế” để giải quyết tranh chấp đó theo tình trạng hiệu lực của di chúc được không? Đây là vấn đề chưa được pháp luật quy định cụ thể.

3. Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau

Di chúc đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật yêu cầu đồng thời người lập di chúc định đoạt tài sản trong giới hạn cho phép của pháp luật thì di chúc được coi là có hiệu lực toàn bộ.

Tuy nhiên, vì những nguyên nhân nhất định nên nhiều khi người lập di chúc đã sử dụng ngôn từ không chuẩn xác, đôi khi chữ viết trong di chúc sai cả lỗi chính tả, ngữ pháp, dẫn đến nội dung của di chúc không cụ thể.

Ngoài ra, nhiều trường hợp họ còn dùng những ngôn từ có nhiều nghĩa khác nhau, thậm chí còn dùng cả ký hiệu hoặc viết tắt nên mỗi người thừa kế đều có thể hiểu theo một nghĩa, theo cách hiểu của mình.

Khi nội dung của di chúc không được chặt chẽ và nếu những người thừa kế không có sự nhường nhịn nhau trong việc hưởng di sản thì đương nhiên mỗi người sẽ cố tình hiểu và giải thích nội dung của di chúc theo hướng có lợi cho mình nhất.

Vì vậy, tất yếu tranh chấp sẽ xảy ra. Trong thực tế còn có thể xảy ra tranh chấp giữa những người thừa kế do di chúc mà người chết để lại bị hư hỏng nặng đến mức không thể xác định được ai là người được hưởng và hưởng di sản như thế nào.

4. Tranh chấp giữa những người thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia di sản không đồng đều

Gia đình Việt Nam cho đến bây giờ vẫn phổ biến một hiện tượng là khi còn nhỏ, con cái ở chung với cha, mẹ, khi trưởng thành hoặc thoát ly khỏi gia đình để lập nghiệp hoặc lấy vợ, lấy chồng và ra ở riêng. Thông thường, có một người (thường là con trai, có thể là con trưởng, có thể là con thứ) ở cùng cha mẹ.

Mặt khác, do sự thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như do tư tưởng phong kiến còn rớt lại trong ý thức hệ nên rất nhiều người cho rằng con gái đã đi lấy chồng thì không được hưởng di sản của bố mẹ đẻ hoặc nếu được thì phải kém hơn phần mà con trai được hưởng; trong các người con thì người con trưởng phải được hưởng phần nhiều nhất. v.v. Các yếu tố trên là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp di sản thừa kế giữa những người thừa kế theo pháp luật.

5. Tranh chấp về thừa kế vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế không được quyền hưởng di sản

Rất nhiều trường hợp xảy ra trong thực tế là khi chia di sản, những người thừa kế tranh chấp nhau vì trong đó có người thừa kế có một trong những hành vi đã được BLDS 2005 quy định tại Điều 643 nên những người thừa kế khác cho rằng người đó sẽ không được quyền thừa kế, tuy nhiên họ không hiểu các vấn đề được quy định trong điều luật trên một cách thấu đáo.

Chẳng hạn, có người thừa kế không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản nhưng chưa nghiêm trọng đến mức bị tước quyền hưởng di sản nhưng những người thừa kế cho rằng cử không chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ là không được hưởng di sản của cha, mẹ để lại.

Hoặc cứ giả mạo di chúc là mất quyền thừa kế nhưng họ không hiểu là người giả mạo di chúc chỉ không được hưởng di sản của người đã bị họ giả mạo di chúc còn đối với di sản của người khác, họ vẫn được hưởng.

Chúng tôi lấy ví dụ bằng một vụ án cụ thể đã được Tòa án nhân dân tỉnh AG giải quyết bằng bản án phúc thẩm số 126/DSPT ngày 3/4/1998 sau đây:

Cụ Nguyễn Văn T và vợ là cụ D có năm người con chung là Nguyễn H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị D, Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị Ch. Cụ T chết vào năm 1957 không để lại di chúc. Cụ D chết vào năm 1983 cũng không để lại di chúc. Sau khi cụ Dần chết, bà Nguyễn Thị Chi đã xuất trình một bản di chúc đứng tên cụ D có nội dung là cho chị Ch hưởng toàn bộ nhà và đất do cụ D để lại. Tài sản chung của vợ chồng cụ T và cụ D để lại gồm một căn nhà và đất trị giá 101.776.000 đồng và một số tài sản khác.

Trong vụ án trên, bốn anh chị em còn lại đều cho rằng chị Chi đã có hành vi giả mạo di chúc nên không được quyền hưởng di sản của cha, mẹ để lại. Cách hiểu của những người đó là không chính xác vì chị Ch chỉ giả mạo di chúc của cụ D nên chỉ không được hưởng di sản của cụ D để lại, còn di sản của cụ T để lại thì chị Ch vẫn được hưởng.

6. Tranh chấp thừa kế do xác định không chính xác về di sản thừa kế

Xác định chính xác về di sản thừa kế một mặt, sẽ bảo đảm được quyền lợi của những người thừa kế (không bỏ sót di sản), mặt khác bảo đảm quyền lợi cho những chủ thể khác (không xác định tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là di sản thừa kế).

Vì thế tranh chấp xảy ra trong những trường hợp này thường do các nguyên nhân sau: Sẽ xảy ra tranh chấp giữa người có quyền sở hữu tài sản bị xác định là di sản thừa kế với những người thừa kế do việc xác định di sản sang tài sản của người đó.

Tranh chấp do xác định di sản thừa kế bao gồm cả phần tài sản mà người để lại di sản đã tặng cho người khác trước khi chết. Tranh chấp xảy ra do không xác định di sản thừa kế bao gồm cả phần tài sản mà một người được người để lại di sản tạm giao quyền sử dụng.

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Mua nhà vi bằng có làm sổ hồng được không?

Vi bằng không có giá trị thay thế cho hợp đồng được công chứng, chứng thực. Việc mua nhà bằng cách lập vi bằng là không Đúng với quy định của pháp...

Vi bằng nhà đất có giá trị bao lâu?

Hiện nay, pháp luật không có quy định về thời hạn giá trị sử dụng của vi bằng. Tuy nhiên, bản chất khi lập vi bằng được hiểu lập là để ghi nhận sự kiện, hành vi có thật bởi chủ thể có thẩm quyền do Nhà nước quy định và được đăng ký tại Sở Tư...

Mua xe trả góp có cần bằng lái không?

Với hình thức mua xe trả góp, người mua có thể dễ dàng sở hữu một chiếc xe mà không cần có sẵn quá nhiều...

Không có giấy phép lái xe có đăng ký xe được không?

Theo quy định pháp luật hiện hành, người mua xe hoàn toàn có quyền thực hiện các thủ tục đăng ký xe máy và pháp luật cũng không quy định bất kỳ độ tuổi cụ thể nào mới có thể được đứng tên xe. Do vậy, Ngay cả khi bạn chưa có bằng lái, bạn vẫn có thể thực hiện đăng ký xe bình...

Phí công chứng hợp đồng thuê nhà hết bao nhiêu tiền?

Theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 thì việc thuê nhà bắt buộc phải lập thành hợp đồng nhưng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực trừ khi các bên có nhu...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi