Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Dân sự Thừa kế khi có nhiều người chết cùng thời điểm
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 1070 Lượt xem

Thừa kế khi có nhiều người chết cùng thời điểm

Điều 641 BLDS 2005 đã quy định:  “Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hương, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 của Bộ luật này”. 

Theo quy định của pháp luật dân sự thì người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều trường hợp người thừa kế chết trước hoặc chết cùng lúc với người để lại di sản. Vậy Thừa kế khi có nhiều người chết cùng thời điểm xử lý như thế nào? Khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết.

Xử lý tài sản của những người chết cùng thời điểm như thế nào?

Điều 641 BLDS 2005 đã quy định:  “Trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sn của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước (sau đây gọi là chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sn ca nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hương, trừ trường hợp thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 677 của Bộ luật này”. 

Để nắm bắt được nội dung của điều luật trên quý độc giả cần theo dõi các nội dung tiếp theo của bài viết.

Như thế nào là những người có quyền thừa kế di sản của nhau? 

Hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung của Điều 641, đặc biệt là về cụm từ: những người có quyền thừa kế di sn của nhau. Vì vậy, chúng tôi xin nêu các cách hiểu khác nhau về cụm từ trên và đưa ra quan điểm của mình với mong muốn có được một cách hiểu thống nhất. Với cụm từ những người có quyền thừa kế di sản của nhau hiện nay có ba cách hiểu khác nhau: 

Cách hiểu thứ nhất: Theo cách hiểu này thì những người có quyền thừa kế di sản của nhau là những người mà giữa họ có mối liên hệ với nhau về việc hưởng di sản của nhau. Vì thế, những người này có thể được xác định theo hai căn cứ: 

– Theo quy định của pháp luật: 

Là những người trong cùng “một cặp” quan hệ thừa kế theo pháp luật. Theo đó, nếu xác định theo BLDS 2005 thì bao gồm: Vợ với chồng, cha, mẹ với các con; anh, chị ruột với em ruột; cô ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, dì ruột với các cháu của họ. Ngoài ra, do BLDS 2005 đã xếp cháu vào hàng thừa kế thứ hai của ông, bà, chặt vào hàng thừa kế thứ ba của cụ nên theo Bộ luật này thì có thêm ông, bà với cháu; cụ với chất trong quan hệ thừa kế. 

– Theo ý chí của chủ thể: 

Là những người mà bằng ý chí của mình (thể hiện trong di chúc), họ để lại di sản cho nhau.

Cách hiểu thứ hai: Những người hiểu theo cách này lại cho rằng, những người có quyền thừa kế di sản của nhau là những người mà giữa họ có mối liên hệ với nhau về việc hưởng di sản của nhau trong những trường hợp được pháp luật xác định. Bao gồm: B . Tại hàng thừa kế thứ nhất bao gồm hai cặp là giữa vợ với chồng và giữa cha mẹ với con. 

– Tại hàng thừa kế thứ hai bao gồm hai cặp là giữa anh, chị ruột với em ruột và giữa ông bà với cháu. 

– Tại hàng thừa kế thứ ba bao gồm hai cặp là giữa cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột với một bên cháu ruột của những người đó và giữa các cụ với chắt. 

Như vậy, cách hiểu thứ hai này cho rằng, cụm từ những người có quyền thừa kế di sản của nhau không bao gồm những người được hưởng di sản của nhau theo di chúc của họ. 

Cách hiểu thứ ba: Cách hiệu này cho rằng, những người có quyền thừa kế di sản của nhau chỉ là những người có mối liên hệ với nhau về việc hưởng di sản được pháp luật xác định và chỉ là những người trong cùng hàng thừa kế thứ nhất. Vì vậy, chỉ bao gồm các cặp thừa kế luôn luôn mang tính hai chiều là: 

– Giữa vợ với chồng.

– Giữa cha, mẹ với con. 

Trong các hàng thừa kế thứ hai và thứ ba, mặc dù cũng bao gồm các cặp quan hệ thừa kế như: quan hệ thừa kế giữa anh, chị ruột với em ruột, giữa ông bà với cháu, giữa cụ với chắt ruột, giữa chú, bác, cô, dì, cậu ruột với cháu ruột, nhưng các cặp này chỉ “được hưởng di sản của nhau” khi không còn ai ở hàng thừa kế trước. Vì vậy, họ không được coi là những người luôn có quyền hưởng di sản của nhau. 

Như vậy, cách hiểu thứ ba này cho rằng, cụm từ những người có quyền thừa kế di sản của nhau không bao gồm những người được hưởng di sản theo di chúc đồng thời cũng không bao gồm các cặp thừa kế giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà với cháu cũng như giữa các cụ với chắt, giữa cô, dì, chú, bác với cháu. 

Mặt khác, dù không phải theo luật định và không phải là phổ | biển nhưng nếu hai người để lại di chúc cho nhau hưởng di sản (ví dụ về trường hợp có quyền hưởng di sản của nhau theo ý chí đã nêu trong cách hiểu thứ nhất) thì mỗi người trong số họ đều là người có quyền hưởng di sản của bên kia (luật đã thừa nhận cá nhân có quyền để lại thừa kế và nhận thừa kế theo di chúc) và việc thừa kế giữa họ vì thế cũng có tính hai chiều. Tuy nhiên, trong trường hợp này nếu hai người chết cùng thời điểm thì di chúc của họ sẽ không có hiệu lực pháp luật (thất hiệu) vì người thừa kế theo di chúc đã chết cùng thời điểm với họ nên không còn căn cứ để xác định họ là người có quyền hưởng di sản của nhau nữa. 

Từ những cách hiểu cùng với những lập luận đã nêu trên, chúng tôi cho rằng để có cách hiểu thống nhất và chính xác về cụm từ những người có quyền thừa kế di sản của nhau là những người có quan hệ thừa kế hai chiều trong các trường hợp sau đây: 

– Trường hợp 1: Giữa vợ với chồng hoặc giữa cha mẹ với con. Đây là những người thừa kế di sản của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất nên họ luôn có quyền hưởng di sản của nhau trong mọi trường hợp. 

– Trường hợp 2: Giữa anh, chị ruột với em ruột hoặc giữa ông, bà với cháu. Đây là những người có quyền hưởng di sản của nhau ở hàng thừa kế thứ hai nên họ chỉ là những người có quyền hưởng di sản của nhau nếu khi họ chết cùng thời điểm mà họ không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất.

– Trường hợp 3: Giữa cụ với chắt ruột hoặc giữa chú, bác, cô, dì, cậu ruột với cháu ruột: Đây là những người có quyền thừa kế di sản của nhau ở hàng thừa kế thứ ba nên họ chỉ là những người có quyền hưởng di sản của nhau nếu khi họ chết cùng thời điểm mà họ không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai.

Như thế nào thì được coi là chết cùng thời điểm và thời điểm đó được xác định theo đơn vị thời gian nào? 

Theo quy định của Điều 641 BLDS 2005 thì được coi là chết cùng thời điểm theo một trong hai trường hợp.

Trường hợp thứ nhất: Khi những người đó đều chết mà có đủ căn cứ cho thấy họ chết vào cùng một lúc. Chẳng hạn, hai người chết cùng lúc khi một quả bom phát nổ hoặc hai người bị trọng thương trong một vụ tai nạn được đưa vào bệnh viện để cấp cứu nhưng không cứu được và họ đều chết. Hồ sơ bệnh án của hai người cho thấy họ chết vào cùng một lúc.

Trường hợp thứ hai: Khi những người đó đều đã chết mà không có căn cứ để có thể xác định được ai chết trước. Trường hợp này được hiểu là trong số những người đã chết thì thực tế có thể có người chết trước, người chết sau nhưng vì không thể xác định được ai chết trước nên buộc phải xác định họ chết cùng thời điểm.

Di sản thừa kế giữa những người này được giải quyết như thế nào? 

Theo quy định của BLDS thì trong mỗi hàng thừa kế có những cặp quan hệ mà trong đó cứ người này chết thì người kia được hưởng di sản mà người chết để lại và ngược lại.

Chẳng hạn: Trong quan hệ giữa cha và con thì nếu cha chết, con sẽ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của cha để hưởng di sản, và ngược lại, nếu con chết, cha sẽ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của con để hưởng di sản (chúng tôi tạm gọi những cặp quan hệ này là: thừa kế hai chiều hay thừa kế đối nhau).

Giả sử trong trường hợp là hai cha con cùng chết trong cùng một thời điểm thì cha hưởng di sản của con và con lại hưởng di sản của cha. Cứ như vậy, họ hưởng di sản lẫn nhau nên việc dịch chuyển di sản giữa hai người đó trong trường hợp này sẽ không có hồi kết thúc.

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Mua nhà vi bằng có làm sổ hồng được không?

Vi bằng không có giá trị thay thế cho hợp đồng được công chứng, chứng thực. Việc mua nhà bằng cách lập vi bằng là không Đúng với quy định của pháp...

Vi bằng nhà đất có giá trị bao lâu?

Hiện nay, pháp luật không có quy định về thời hạn giá trị sử dụng của vi bằng. Tuy nhiên, bản chất khi lập vi bằng được hiểu lập là để ghi nhận sự kiện, hành vi có thật bởi chủ thể có thẩm quyền do Nhà nước quy định và được đăng ký tại Sở Tư...

Mua xe trả góp có cần bằng lái không?

Với hình thức mua xe trả góp, người mua có thể dễ dàng sở hữu một chiếc xe mà không cần có sẵn quá nhiều...

Không có giấy phép lái xe có đăng ký xe được không?

Theo quy định pháp luật hiện hành, người mua xe hoàn toàn có quyền thực hiện các thủ tục đăng ký xe máy và pháp luật cũng không quy định bất kỳ độ tuổi cụ thể nào mới có thể được đứng tên xe. Do vậy, Ngay cả khi bạn chưa có bằng lái, bạn vẫn có thể thực hiện đăng ký xe bình...

Phí công chứng hợp đồng thuê nhà hết bao nhiêu tiền?

Theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 thì việc thuê nhà bắt buộc phải lập thành hợp đồng nhưng không bắt buộc phải công chứng, chứng thực trừ khi các bên có nhu...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi