Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Những đối tượng nào được hưởng trợ cấp thất nghiệp?
  • Thứ hai, 14/08/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 1882 Lượt xem

Những đối tượng nào được hưởng trợ cấp thất nghiệp?

Trong những năm qua, khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hiện tượng người lao động bị mất việc làm hoặc không tìm được việc làm đang có xu hướng gia tăng.

Trong điều kiện kinh tế thị trường, thất nghiệp là hiện tượng kinh tế xã hội tất yếu, những đối tượng nào được hưởng trợ cấp thất nghiệp?

Chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam theo pháp luật hiện hành 

Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của người lao động mà còn gây hậu quả nghiêm trọng đối với Nhà nước và xã hội.

Trong những năm qua, khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hiện tượng người lao động bị mất việc làm hoặc không tìm được việc làm đang có xu hướng gia tăng.

Để giải quyết tình trạng này, chúng ta đã áp dụng các chế độ như trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm hay có chính sách riêng nhằm giải quyết lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, đây chỉ là những giải pháp tình thế, có tính chất tạm thời.

Thực tế cho thấy nếu chỉ buộc người sử dụng lao động có trách nhiệm thì không thể giải quyết toàn diện vấn đề thất nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có một chính sách quốc gia mang tính tổng thể để huy động sức mạnh của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong vấn đề giải quyết thất nghiệp.

Vì thế, xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đã trở thành yêu cầu cấp thiết, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn khách quan… 

Đáp ứng những yêu cầu khách quan đó, ngày 29/7/2006, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật bảo hiểm xã hội, trong đó có những điều khoản quy định về bảo hiểm thất nghiệp.

Sau đó, Nhà nước đã lần lượt ban hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP và Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH ngày 22/1/2009 nhằm cụ thể hóa các quy định về bảo hiểm thất nghiệp trong Luật bảo hiểm xã hội. 

Các quy định về đối tượng và phạm vi áp dụng bảo hiểm thất nghiệp 

Đối tượng và phạm vi áp dụng bảo hiểm thất nghiệp được xác định trên cơ sở khả năng đóng góp của các đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp và khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Tính chất xã hội của bảo hiểm thất nghiệp (giúp đỡ người lao động khi mất việc làm) luôn được kết hợp hài hoà với tính chất kinh tế (đảm bảo an toàn và sử dụng hiệu quả quỹ bảo hiểm thất nghiệp). Vì vậy, không phải mọi người thất nghiệp đều là đối tượng áp dụng của bảo hiểm thất nghiệp. 

Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp hiện hành ở Việt Nam, đối tượng tham gia đóng góp và được hưởng bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Những người lao động là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. 

Theo tính toán của các chuyên gia về bảo hiểm thất nghiệp, trong giai đoạn trước mắt ở Việt Nam, chỉ những người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc từ 12 tháng trở lên mới có đủ thời hạn để tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp trước khi hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp từ quỹ này.

Điều này đảm bảo được mức cân đối thu chi của quỹ bảo hiểm thất nghiệp và hạn chế tỷ lệ hỗ trợ của Nhà nước (1%) trong việc đóng bảo hiểm thất nghiệp cho những đối tượng hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Đồng thời, do sự tác động của nền kinh tế thị trường nên người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động có nhiều nguy cơ hơn trong việc bị mất việc làm so với những người là công chức, viên chức nhà nước được tuyển dụng theo chế độ biên chế nhà nước.

Vì vậy, trong giai đoạn hiện tại ở Việt Nam, chế độ bảo hiểm thất nghiệp không áp dụng với những đối tượng được tuyển dụng theo hình thức biên chế nhà nước để vào làm việc trong cơ quan nhà nước. Khi điều kiện kinh tế xã hội và khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm thất nghiệp được đảm bảo, đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp sẽ được mở rộng hơn. 

Về phạm vi áp dụng, chế độ bảo hiểm thất nghiệp được áp dụng cho người lao động làm việc trong mọi thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu.

Quy định này phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và xu hướng nhất thể hoá pháp luật áp dụng đối với các thành phần kinh tế. Mặt khác, quy định này còn đảm bảo sự bình đẳng giữa những người lao động làm công ăn lương thuộc mọi thành phần kinh tế. 

Các quy định về điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp 

Giống như các chế độ bảo hiểm xã hội khác, người được hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng phải đảm bảo những điều kiện nhất định.

Xuất phát từ đặc thù của bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện để được hưởng chế độ này phức tạp hơn các chế độ bảo hiểm khác nhằm giúp cơ quan quản lý bảo hiểm thất nghiệp thực hiện nghiệp vụ chính xác, kịp thời, hỗ trợ đúng đối tượng và góp phần đảm bảo công bằng xã hội. 

Điều kiện thứ nhất: Để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp một khoảng thời gian nhất định trước khi bị mất việc làm.

Quy định về thời gian đóng góp dài hay ngắn tuỳ thuộc vào điều kiện của từng quốc gia. Quy định này nhằm buộc người lao động thực hiện nghĩa vụ của mình theo nguyên tắc có đóng góp mới được hưởng thụ, để quỹ bảo hiểm thất nghiệp có nguồn thu đủ chi (bên cạnh nguồn thu từ việc đóng góp của người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước). 

Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp hiện hành ở Việt Nam quy định điều kiện tiên quyết để được hưởng bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động là phải có thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi bị thất nghiệp. 

Điều kiện thứ hai: Người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội (theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006).

Điều kiện này nhằm đảm bảo việc theo dõi, quản lý, kiểm soát số người thất nghiệp để chi trả chính xác chế độ trợ cấp thất nghiệp. Người thất nghiệp phải trình cơ quan quản lý bảo hiểm thất nghiệp các giấy tờ tài liệu chứng minh tình trạng thất nghiệp kèm theo đơn xin hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Điều kiện thứ ba: Người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp phải chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp.

Việc quy định kể từ ngày chấm dứt quan hệ lao động, phải sau một thời gian nhất định nếu không tìm được việc làm, người thất nghiệp mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp nhằm hạn chế việc chi trả từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp đối với các trường hợp thất nghiệp trong thời hạn ngắn, hoặc trường hợp thời gian thất nghiệp chỉ là giai đoạn chuyển tiếp giữa hai hợp đồng lao động.

Đây cũng là khoảng thời gian để người lao động tìm kiếm việc làm mới hoặc thông qua sự giúp đỡ của cơ quan môi giới để tìm việc làm mới, nếu không tìm được việc làm mới thì mới được hưởng bảo hiểm thất nghiệp. 

Quy định về việc hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp 

Việc hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp ở các quốc gia tuy không giống nhau nhưng đều tập trung các đối tượng là người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước.

Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy sự đóng góp của ba bên trong việc hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp là hợp lý, vừa đảm bảo sự cân đối trong thu chi tài chính vừa tạo ra sự ràng buộc về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên.

Quỹ phải được thực hiện trên nguyên tắc hạch toán độc lập và tự chủ, bảo toàn về giá trị và tránh những rủi ro về tài chính, đáp ứng nhu cầu chi trả của bảo hiểm thất nghiệp. 

Đối với người lao động, quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành nhằm bù đắp thu nhập cho người lao động khi mất việc làm. Do đó, muốn được hưởng trợ cấp thất nghiệp. người lao động phải tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Khoản đóng góp này có thể coi như một khoản tiết kiệm để khắc phục rủi ro khi mất việc làm.

Sự đóng góp của người lao động còn để thực hiện nghĩa vụ san sẻ rủi ro, lấy của số đông người lao động đang làm việc bù đắp cho những người thất nghiệp.. 

Đối với người sử dụng lao động, việc đóng góp bảo hiểm thất nghiệp nhằm tạo ra nguồn lực tài chính để khắc phục rủi ra mất việc làm của người lao động.

Sự đóng góp của người sử dụng theo định kỳ và với tỷ lệ nhất định sẽ góp phần giảm bớt gánh nặng cho chính doanh nghiệp khi phải trả trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc cho người lao động bị mất việc làm, đặc biệt là khi người lao động của doanh nghiệp bị thất nghiệp hàng loạt.

Việc tham gia bảo hiểm thất nghiệp do đó có ý nghĩa là giao cho tổ chức bảo hiểm thất nghiệp làm thay nhiệm vụ giải quyết thất nghiệp của người sử dụng. Vì vậy, đóng góp bảo hiểm thất nghiệp vừa là trách nhiệm vừa là quyền lợi của người sử dụng lao động. 

Đối với Nhà nước, thất nghiệp là vấn đề mang tính xã hội, chế độ bảo hiểm thất nghiệp là chính sách xã hội quan trọng, được thực hiện trên cơ sở đảm bảo công bằng giữa những người lao động, kết hợp tăng trưởng kinh tế với đảm bảo những giá trị tiến bộ xã hội.

Do đó, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và giải quyết tình trạng thất nghiệp. Để làm được điều này, Nhà nước không chỉ đưa ra các chính sách, chế độ mà còn phải thực hiện các giải pháp cụ thể và tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Việc tham gia đóng góp của Nhà nước có thể dưới hình thức hỗ trợ khi quỹ có sự thiếu hụt, bảo toàn giá trị của quỹ hoặc đóng góp theo định kỳ vào quỹ.

Việc Nhà nước tham gia đóng góp bảo hiểm thất nghiệp ở các quốc gia cũng không giống nhau. Tại Đức, Nhà nước chỉ hỗ trợ khi cần thiết. T

ại Thụy Điển, Nhà nước đóng 85% trong tổng thu của quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Tại Ba Lan, quỹ bảo hiểm thất nghiệp chủ yếu do ngân sách nhà nước đóng góp. có khi chiếm tới 61,4 % tổng quỹ.

Tại Việt Nam, kể từ ngày 01/01/2009, quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành chủ yếu từ những nguồn sau: 

– Người lao động đóng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 

– Người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp; 

– Hàng tháng, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ Liên lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp. 

Ngoài ra, để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội còn có thể có thêm một số nguồn thu khác như tiên sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp, các nguồn thu hợp pháp khác…

Như vậy, khác với các quỹ bảo hiểm bắt buộc và quỹ bảo hiểm tự nguyện, Nhà nước sẽ tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Đây là quy định nhằm hỗ trợ cho việc hình thành một quỹ mới của bảo hiểm xã hội và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với các vấn đề có tính xã hội như giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp.

Ngoài ra, với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, Nhà nước tuy không đóng góp toàn bộ vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp nhưng lại có quyền chi phối hoạt động của quỹ. Nhờ đó, Nhà nước có thể chủ động kinh phí để ứng phó với tình hình thất nghiệp gia tăng (nếu xảy ra trong thực tế). 

Các quy định về sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp 

Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được sử dụng vào các mục đích sau đây: Trả tiền bảo hiểm thất nghiệp cho người thất nghiệp, chi cho các hoạt động tìm kiếm việc làm, chi hỗ trợ kinh phí học nghề cho người thất nghiệp, chi quản lý quỹ…

Nhìn chung các khoản chi của quỹ bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Trả trợ cấp thất nghiệp và chi cho các hoạt động tìm và tạo việc làm cho người thất nghiệp. 

Thứ nhất, trả trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp thất nghiệp là khoản tiền bảo hiểm thất nghiệp trả cho người thất nghiệp khi họ có đủ điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Trong số các điều kiện cần và đủ để người lao động được nhận trợ cấp thất nghiệp, đáng chú ý là những điều kiện như: Phải có quá trình tham gia đóng góp bảo hiểm thất nghiệp trước đó (đảm bảo khoảng thời gian nhất định), lý do chấm dứt hợp đồng phải hợp pháp và đã đăng ký thất nghiệp tại cơ quan bảo hiểm thất nghiệp.

Những điều kiện này phải được ghi lại trong một văn bản để người lao động khi bị mất việc làm có thể đem đến cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết chế độ trợ cấp thất nghiệp.

Theo pháp luật hiện hành (Điều 82 Luật bảo hiểm xã hội năm 2006), mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kể trước khi thất nghiệp.

Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với mỗi người thất nghiệp sẽ là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 12 tháng tuỳ thuộc thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp của người đó.

Nhìn chung, số tiền trợ cấp thất nghiệp trả cho mỗi cá nhân sẽ phụ thuộc vào mức hưởng trợ cấp thất nghiệp và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Muốn được hưởng mức bảo hiểm thất nghiệp cao, các bên phải đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp với tỷ lệ lớn, muốn được hưởng thời gian trợ cấp thất nghiệp dài, người lao động phải có thời gian đóng góp tương ứng.

Công ước số 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quy định mức trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 45% tổng thu nhập trước đó của người thụ hưởng, trong thời hạn ít nhất là 13 tuần.

Trên cơ sở pháp luật quốc tế và điều kiện của từng quốc gia, mức và thời gian hưởng được quy định không giống nhau (Ví dụ: Trung Quốc quy định mức hưởng bằng 70% lương: Cộng hoà liên bang Đức xác định mức trợ cấp thất nghiệp là 67% cho người thất nghiệp có một con, số còn lại là 60%…). 

Thứ hai, chi cho các hoạt động hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp. Trong thực tế hiện nay ở Việt Nam, tay nghề kém, không đáp ứng yêu cầu công việc là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam.

Do đó, đào tạo nghề hoặc nâng cao tay nghề cho người thất nghiệp để họ đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới không còn là trách nhiệm của từng doanh nghiệp.

Đây là hoạt động quan trọng của Nhà nước để tạo cơ hội cho người thất nghiệp tiếp tục tham gia thị trường lao động.

Do đó, pháp luật bảo hiểm thất nghiệp hiện hành quy định: Cơ quan bảo hiểm thất nghiệp có trách nhiệm hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho các doanh nghiệp, hỗ trợ học phí để người thất nghiệp tự đi học nghề hoặc trực tiếp tổ chức dạy nghề tập trung cho người thất nghiệp. 

Thứ ba, chi cho các hoạt động tìm và tạo việc làm cho người thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai nhằm hỗ trợ khó khăn cho người lao động khi rơi vào tình trạng thất nghiệp đồng thời tạo điều kiện cho họ tiếp tục tham gia thị trường lao động.

Để đưa người thất nghiệp trở lại làm việc, cơ quan bảo hiểm thất nghiệp có thể tiến hành một số biện pháp cơ bản sau đây: 

– Đào tạo và đào tạo lại nghề cho người thất nghiệp. 

– Hỗ trợ các cơ sở dạy nghề: Giải pháp này được thực hiện thông qua các cơ sở dạy nghề có tính chuyên nghiệp cao, chất lượng đào tạo đã được khẳng định, với nguồn kinh phí do quỹ bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ. 

– Môi giới việc làm, tư vấn lao động, tư vấn về nghề nghiệp: Hoạt động môi giới và tư vấn có thể được thực hiện thông qua cơ quan giới thiệu việc làm với kinh phí do quỹ bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ.

Các cơ quan quản lý bảo hiểm thất nghiệp cũng có thể thành lập các bộ phận chức năng để tiến hành hoạt động này nhằm tạo điều kiện cho người thất nghiệp (đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm) và người sử dụng lao động (có nhu cầu tìm nhân lực) có cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc với nhau, tiến tới xác lập quan hệ lao động mới. 

– Hỗ trợ doanh nghiệp nhận người thất nghiệp vào làm việc: Đối tượng được quỹ bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ phải là các doanh nghiệp nhận người thất nghiệp vào làm việc lâu dài, ổn định, với số lượng nhất định (tương ứng với tỷ lệ % tính trên tổng số lao động của đơn vị).

Mức hỗ trợ cụ thể sẽ được tính theo số lượng người thất nghiệp được doanh nghiệp nhận vào làm việc. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể được ưu tiên vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp để mở rộng sản xuất. 

– Hỗ trợ người thất nghiệp tự tạo việc làm: Người lao động đã đăng ký thất nghiệp tại cơ quan bảo hiểm thất nghiệp nhưng không muốn tham gia vào thị trường lao động, có ý định tự tạo việc làm có thể được hỗ trợ kinh phí ban đầu bằng cách cho vay với lãi suất thấp hoặc hỗ trợ không hoàn lại một số vốn nhất định. 

– Tổ chức sản xuất tạm thời cho người thất nghiệp.. 

Thứ tư, ngoài các khoản chi cơ bản nói trên, quỹ bảo hiểm thất nghiệp còn được dùng để chi cho các khoản khác như đóng bảo hiểm y tế cho người hưởng trợ cấp thất nghiệp, chi cho việc quản lý quỹ, đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ… 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (8 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thủ tục làm chế độ nghỉ chăm con ốm đau mới nhất

Chế độ nghỉ chăm con ốm đau là một quyền lợi của người lao động khi phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau. Người lao động được hưởng tiền bảo hiểm xã hội trong thời gian nghỉ chăm con ốm theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội...

Có thể nhờ người khác nhận tiền đền bù tai nạn lao động không?

Có thể nhờ người khác nhận tiền đền bù tai nạn lao động không? Quý vị hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua nội dung bài viết sau...

Người sử dụng lao động phải trả những chi phí nào cho người bị tai nạn lao động?

Nếu người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy...

Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động thì có được nhận thêm trợ cấp khuyết tật không?

Người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng nhiều chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội cùng loại chỉ được hưởng một chính sách trợ giúp cao...

Khám dịch vụ có được hưởng bảo hiểm y tế không?

Đối với các dịch vụ không được chỉ định theo yêu cầu chuyên môn hoặc không thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế: Người bệnh tự chi trả toàn bộ chi phí các dịch vụ...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi