Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương Người lao động gây thiệt hại cho công ty phải bồi thường như thế nào?
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 771 Lượt xem

Người lao động gây thiệt hại cho công ty phải bồi thường như thế nào?

Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của người sử dụng lao động.

Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động

Dưới góc độ lao động Điều 129 Bộ luật lao động hiện nay quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động khi gây thiệt hại cho công ty như sau:

1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của người sử dụng lao động. 

Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Bộ luật này.

2. Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường. 

Tư vấn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động

 Điều luật này quy định về việc bồi thường thiệt hại của người lao động đối với người sử dụng lao động trong trường hợp người lao động gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động. Việc gây thiệt hại này là do hành vi vi phạm kỷ luật của người lao động gây ra nên nó được xảy ra trong quan hệ lao động, gắn với việc thực hiện các nghĩa vụ lao động.

Về nguyên tắc, để áp dụng trách nhiệm bồi thường đối với người lao động cần bảo đảm các điều kiện: người lao động phải có hành vi vi phạm kỷ luật lao động, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra và người lao động phải có lỗi. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của người sử dụng lao động. Tuy nhiên tùy theo hình thức của sự thiệt hại mà việc bồi thường khác nhau. Cụ thể: 

Trường hợp 1: Người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo mức mỗi tháng không quá 30% tiền lương thực trả hàng tháng của người lao động sau khi đã trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. 

Có thể thấy để áp dụng quy định bồi thường này, người lao động cần phải bảo đảm 2 điều kiện: Một là, người lao động phải gây thiệt hại không nghiêm trọng (cụ thể là giá trị thiệt hại không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc). Hai là, do sơ suất, tức là người lao động gây thiệt hại do vô ý (lỗi vô ý). Về mức bồi thường, người lao động không phải bồi thường theo thiệt hại thực tế xảy ra mà chỉ bồi thường ở mức độ nhất định.

Cụ thể, mức bồi thường cao nhất là 3 tháng tiền lương (dù thiệt hại thực tế có thể nhiều hơn) và cách thức bồi thường cũng rất “ưu ái” là trừ dần vào lượng hàng tháng ở mức độ khấu trừ nhất định. Chính vì vậy, việc bồi thường này còn được coi là “trách nhiệm bồi thường hạn chế trong pháp luật lao động. Quy định bồi thường này xuất phát từ quan điểm cho rằng trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ lao động, người lao động phải sử dụng tài sản của người sử dụng lao động như máy móc, thiết bị nguyên vật liệu… bởi vậy việc sơ suất gây thiệt hại là điều khó tránh khỏi.

Do đó để bảo vệ người lao động cần quy định mức bồi thường hạn chế đối với người lao động. Đây cũng là quan điểm mà các nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay áp dụng. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều nước theo quan điểm người lao động gây thiệt hại về tài sản cho người sử dụng lao động phải bồi thường theo quy định của pháp luật dân sự để bảo đảm quyền sở hữu về tài sản của người sử dụng lao động. 

– Trường hợp 2: Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép. 

là Đối với trường hợp này, người sử dụng lao động phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.

Việc bồi thường thiệt hại của người lao động trong trường hợp này khác với trường hợp người lao động làm hư hỏng tài sản. Nếu ở trường hợp làm hư hỏng tài sản do sơ suất, gây thiệt hại không nghiêm trọng BLLĐ quy định về mức bồi thường và xác định giới hạn mức bồi thường tối đa thì 

trường hợp này BLLĐ không quy định cụ thể mà căn cứ vào giá thị trường hoặc nội quy lao động hoặc hợp đồng trách nhiệm. Bởi vậy, trong nội quy lao động cần phải quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường, các trường hợp bồi thường, đó là bồi thường một phần hay toàn bộ theo thời giá thị trường. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là những quy định về bồi thường trong nội quy lao động cần phải phù hợp với nguyên tắc chung về bồi thường được quy định tại khoản 1 Điều 130 BLLĐ năm 2019. Đó là mức bồi thường phải căn cứ vào lỗi, mức độ thiệt hại thực tế và hoàn cảnh thực tế gia đình, nhân thân và tài sản của người lao động. 

Đối với các trường hợp vì lý do bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù người lao động đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường. Quy định này phù hợp với lý luận về nguyên tắc chung của bồi thường thiệt hại, đó là người gây thiệt hại phải có hành vi vi phạm và có lỗi. Trong trường hợp bất khả kháng, người lao động không có lỗi nên không có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào?

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào? Cùng chúng tôi tìm hiểu để có thêm thông tin giải đáp qua bài viết này...

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu?

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu? là thắc mắc được chúng tôi chia sẻ, làm rõ trong bài viết này. Mời Quý vị theo dõi, tham...

Hành vi nào được xem là tiết lộ bí mật kinh doanh?

Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh...

Ai có thẩm quyền ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động?

Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động là văn bản do người sử dụng lao động ban hành nhằm thông báo việc chấm dứt hợp đồng lao động với người lao...

Công ty có phải thông báo trước khi hợp đồng lao động hết thời hạn không?

Từ 1/1/2021, khi Bộ luật lao động 2019 có hiệu lực thi hành, công ty không phải thông báo với người lao động khi hợp đồng lao động hết thời...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi