Hiệu lực và thời hạn của thỏa ước lao động tập thể như thế nào?
Ngày có hiệu lực của thỏa ước lao động tập thể do các bên thỏa thuận và được ghi trong thỏa ước. Trường hợp các bên không thỏa thuận ngày có hiệu lực thì thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực kể từ ngày ký kết.
Quy định về Hiệu lực và thời hạn của thỏa ước lao động tập thể
Bộ luật lao động quy định về Hiệu lực và thời hạn của thỏa ước lao động tập thể như sau:
Điều 78. Hiệu lực và thời hạn của thỏa ước lao động tập thể
1. Ngày có hiệu lực của thỏa ước lao động tập thể do các bên thỏa thuận và được ghi trong thỏa ước. Trường hợp các bên không thỏa thuận ngày có hiệu lực thì thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực kể từ ngày ký kết.
Thỏa ước lao động tập thể sau khi có hiệu lực phải được các bên tôn trọng thực hiện.
2. Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp có hiệu lực áp dụng đối với người sử dụng lao động và toàn bộ người lao động của doanh nghiệp. Thỏa ước lao động tập thể ngành và thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp có hiệu lực áp dụng đối với toàn bộ người sử dụng lao động và người lao động của các doanh nghiệp tham gia thỏa ước lao động tập thể.
3. Thỏa ước lao động tập thể có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm. Thời hạn cụ thể do các bên thỏa thuận và ghi trong thỏa ước lao động tập thể. Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn khác nhau đối với các nội dung của thỏa ước lao động tập thể.
Bình luận về Hiệu lực và thời hạn của thỏa ước lao động tập thể
Hiệu lực của thỏa ước lao động tập thể là giá trị áp dụng, thể hiện ở phạm vi điều chỉnh về thời gian và đối tượng áp dụng các nội dung của thỏa ước.
BLLĐ năm 1994 quy định thoả ước lao động tập thể có hiệu lực kể từ ngày được cơ quan lao động cấp tỉnh đăng ký, nếu hết thời hạn cấp đăng ký mà không có thông báo thì thoả ước lao động tập thể đương nhiên có hiệu lực. Đến lần sửa đổi năm 2002, hiệu lực của thỏa ước lao động được tính từ ngày hai bên thỏa thuận ghi trong thỏa ước, trường hợp hai bên không thỏa thuận thì thỏa ước có hiệu lực kể từ ngày ký” và tiếp tục được duy trì trong BLLĐ năm 2019.
Quy định này bảo đảm sự tôn trọng quyền tự quyết của hai bên trong quan hệ lao động, tránh sự lệ thuộc vào cơ quan quản lý nhà nước thông qua các thủ tục về đăng ký để được thừa nhận.
Khi thỏa ước có hiệu lực thì các bên phải tôn trọng thực hiện. Các bên ở đây chính là đối tượng áp dụng thỏa ước.
Với thỏa ước doanh nghiệp, từ BLLĐ năm 1994 đều xác định đối tượng áp dụng chính là người sử dụng lao động và toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp; đến BLLĐ năm 2019, mặc dù cho phép trong doanh nghiệp có thể có nhiều hơn một tổ chức đại diện người lao động được thành lập và tham gia vào quan hệ lao động song với nội dung thương lượng, BLLĐ năm 2019 đi theo mô hình một thương lượng, một thỏa ước, theo đó đối tượng áp dụng vẫn là người sử dụng lao động và toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp, không có sự phân biệt người lao động tham gia hay không tham gia tổ chức đại diện người lao động hay là thành viên giữa các tổ chức đại diện.
Với thỏa ước lao động tập thể ngành và thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia, đối tượng áp dụng là toàn bộ người sử dụng lao động và người lao động của các doanh nghiệp tham gia thỏa ước lao động tập thể đó.
Thời hạn của thỏa ước là khoảng thời gian xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc) giá trị hiệu lực của bản thỏa ước lao động tập thể đã được ký kết.
BLLĐ năm 1994 quy định thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp được ký kết với thời hạn từ một năm đến ba năm; đối với doanh nghiệp lần đầu tiên ký kết thoả ước tập thể, thì có thể ký kết với thời hạn dưới một năm. BLLĐ năm 2012, ngoài thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, bổ sung thỏa ước lao động tập thể ngành có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm.
Đến BLLĐ năm 2019, quy định chung mọi loại thỏa ước có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm; thời hạn cụ thể do các bên thỏa thuận và ghi trong thỏa ước lao động tập thể, các bên có quyền thỏa thuận thời hạn khác nhau đối với các nội dung của thỏa ước lao động tập thể.
Quy định thời hạn này có ưu điểm là để các bên xác lập các thỏa thuận mang tính chất tương đối ổn định, tuy nhiên trên thực tế không phải lúc nào cũng có thể đưa ra được các nội dung thỏa thuận trên 01 năm, chẳng hạn như ở trường hợp doanh nghiệp mới thành lập, điều kiện chưa ổn định nên được BLLĐ năm 1994 cho phép thời hạn có thể dưới một năm; hay trong cùng một thỏa ước, có thể có nội dung áp dụng được từ 01 đến 03 năm, có nội dung hai bên chỉ có nhu cầu thỏa thuận áp dụng dưới một năm nhưng theo BLLĐ năm 2019 thì những nội dung có thời hạn dưới 01 năm là không được phép.
Đây chính là điểm thiếu linh hoạt hoặc có thể dẫn đến cách hiểu chưa rõ ràng trong quy định về thời hạn của thỏa ước và có thể làm hạn chế những thỏa thuận có lợi cho hai bên trong quan hệ lao động.
BÀI VIẾT MỚI NHẤT
Xử lý thỏa ước lao động tập thể vô hiệu như thế nào?
Khi thỏa ước lao động tập thể bị tuyên bố vô hiệu thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên ghi trong thỏa ước lao động tập thể tương ứng với toàn bộ hoặc phần bị tuyên bố vô hiệu được giải quyết theo quy định của pháp luật và các thỏa thuận hợp pháp trong hợp đồng lao động....
Trách nhiệm của người sử dụng lao động về thông tin về an toàn lao động
Một trong những điều nghiêm cấm đã quy định tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật Lao động là “Che giấu, khai báo hoặc báo cáo sai sự thật về tai nạn lao động, bệnh nghề...
Khi nào cần lập kế hoạch an toàn lao động, vệ sinh lao động?
Người sử dụng lao động khi lập kế hoạch sản xuất kinh doanh đồng thời phải lập kế hoạch, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao...
Quy định về nghỉ thai sản theo Bộ luật lao động mới nhất
Trong đa số trường hợp, người phụ nữ có thai kỳ khoẻ mạnh sẽ nghỉ thai sản lúc gần kề hoặc bắt đầu từ thời điểm sinh con. Tuy nhiên, một số phụ nữ trong những tháng cuối của thai kỳ không đủ sức khoẻ để làm việc, cần được nghỉ ngơi, dưỡng sức....
Cách tính lương ngày lễ theo luật mới 2025
Vào những ngày lễ, tết, người lao động có quyền nghỉ. Trường hợp người lao động làm việc vào những ngày này được xác định là làm thêm bởi theo khoản 1 Điều 107 Bộ luật lao động, thời gian làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao...
Xem thêm


























