Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Bảo hiểm xã hội Các chế độ trợ giúp xã hội hiện nay
  • Thứ ba, 22/08/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 660 Lượt xem

Các chế độ trợ giúp xã hội hiện nay

Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam được xác định là chiến lược quốc gia để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, văn minh.

Các chế độ trợ giúp xã hội 

Thời gian qua chúng ta đã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật quy định chế độ trợ giúp xã hội phù hợp với từng giai đoạn nhất định. Nhiều văn bản luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư… quy định trực tiếp, gián tiếp về chế độ trợ giúp xã hội đã được ban hành như Bộ luật lao động, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Pháp lệnh người cao tuổi, Luật người khuyết tật, Pháp lệnh phòng chống lụt bão…

Trong chế độ trợ giúp xã hội, văn bản pháp luật quan trọng nhất quy định nội dung chế độ là Nghị định của Chính phủ số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, Thông tư số 09/TT-BLĐTBXH ngày 13/7/2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 về điều kiện, thủ tục thành lập, hoạt động và giải thể của cơ sở bảo trợ xã hội…

Ngoài ra, trong từng trường hợp rủi ro thiên tai cụ thể, các văn bản pháp luật được các cấp có thẩm quyền ban hành bảo đảm thực hiện chế độ trợ giúp đột xuất phù hợp với thực tế. 

Theo pháp luật hiện hành, chế độ trợ giúp xã hội chủ yếu bao gồm chế độ trợ giúp thường xuyên và chế độ trợ giúp đột xuất.

Ngoài ra, ở phạm vi rộng nội dung trợ giúp xã hội còn có các quy định thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và các quy định nhằm nâng đỡ, tạo điều kiện để những người lầm lỡ, không may rơi vào những tệ nạn xã hội (mại dâm, ma tuý…) trở lại cuộc sống bình thường.

Các đối tượng này đồng thời là đối tượng quan tâm, tác động của nhiều cơ quan, ngành khác nhau, trợ giúp xã hội chỉ thực hiện chức năng giúp đỡ phần nào về vật chất (tài chính, điều kiện sinh sống…) hoặc giúp họ chữa bệnh, tư vấn về tâm, sinh lý để họ sớm quay về với cuộc sống bình thường, hoà mình với cộng đồng. 

Chế độ trợ giúp xã hội đối với đối tượng đói nghèo được xem xét trong mối quan hệ với chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.

Xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam được xác định là chiến lược quốc gia để phát triển kinh tế, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, văn minh.

Trợ giúp xã hội là một nội dung nằm trong nhóm các giải pháp về cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo cùng với các chính sách hỗ trợ phát triển xoá đói giảm nghèo, giữa xoá đói giảm nghèo và trợ giúp xã hội có một mảng giao thoa về đối tượng và nội dung, theo đó những đối tượng đói nghèo khi rơi vào diện trợ giúp thì được hưởng trợ cấp xã hội và ngược lại, đối tượng của trợ giúp xã hội cũng chính là đối tượng của xoá đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, cũng phải nhận thức rằng không phải mọi đối tượng đói nghèo đều được hưởng trợ giúp xã hội. Chỉ những đối tượng đảm bảo những điều kiện hưởng trợ cấp mới được hưởng trợ cấp xã hội.

Mặt khác, xoá đói giảm nghèo có nội dung rộng hơn rất nhiều so với trợ giúp xã hội, nếu như trợ giúp xã hội chỉ dừng lại ở việc trợ giúp cho đối tượng vượt qua được hoàn cảnh hiện tại, có tính cấp bách thì xoá đói giảm nghèo còn nhằm giúp đối tượng đảm bảo cuộc sống, vươn lên thoát khỏi đói nghèo với đa dạng các chế độ bảo vệ như hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ về y tế, giáo dục, hướng nghiệp dạy nghề, cải thiện môi trường điện, nước… phát triển kinh tế bằng các ưu đãi về đất, thuế, tín dụng…

Do vậy, theo quy định pháp luật hiện hành, có thể nhận thấy đối tượng đói nghèo vừa là đối tượng bảo vệ của chế độ trợ giúp, vừa là đối tượng của xoá đói giảm nghèo với việc quy định cụ thể chế độ trong các văn bản chuyên ngành về y tế, giáo dục, môi trường, thuế, tín dụng, đất đai… 

Chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên 

Chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên là sự giúp đỡ về vật chất và các điều kiện sinh sống khác của xã hội một cách thường xuyên cho các thành viên của mình khi gặp phải những rủi ro, bất hạnh, rơi vào tình cảnh hết sức khó khăn, cuộc sống thường nhật luôn bị đe doạ. 

Đối tượng trợ giúp thường xuyên 

Trong mỗi quốc gia, bao giờ cũng tồn tại một bộ phận đối tượng cần trợ giúp, bất kể quốc gia đó có điều kiện kinh tế phát triển đến đâu. Trong pháp luật quốc tế và hầu hết các quốc gia, khi xác định đối tượng trợ giúp xã hội, nhóm đối tượng đầu tiên được tính đến là những đối tượng như trẻ em mồ côi, người tàn tật, giá cả, goá bụa không nơi nương tựa…

Đây được coi là nhóm đối tượng “yếu thế” nhất với những khó khăn, rủi ro về kinh tế, thu nhập, sức khoẻ, hoàn cảnh nhân thân. Nguyên tắc ưu tiên theo thứ tự lũy thoái mức độ rủi ro, khó khăn của đối tượng được đảm bảo thực hiện trong việc quy định phạm vi đối tượng hưởng.

Tuy vậy, cũng phải nhận thức rằng, phạm vi đối tượng được hưởng trợ giúp xã hội ở các quốc gia không phải hoàn toàn giống nhau mà nhiều khi có sự khác biệt, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện riêng của quốc gia, thậm chí trong cùng một quốc gia, phạm vi đối tượng này cũng có những thay đổi nhất định tuỳ vào từng giai đoạn phát triển khác nhau.

Các quốc gia có điều kiện kinh tế phát triển, quan hệ xã hội được chú trọng như Thụy Điển, Đan Mạch, Canada, Anh… thường xác định phạm vi đối tượng hưởng khá rộng với những điều kiện nới lỏng, họ chú trọng vào điều kiện thời gian cư trú, độ tuổi, sức khoẻ và xem nhẹ hơn về điều kiện kinh tế.

Các nước này thường thiết lập chế độ hưởng phổ quát và điều kiện kinh tế chỉ làm cơ cở xác định mức trợ cấp hơn lên cho đối tượng khó khăn.

Chẳng hạn, để được hưởng trợ cấp xã hội đối với người già ở Canada, đối tượng phải đạt 65 tuổi, cư trú hợp pháp trên lãnh thổ từ 10 năm trở lên và đảm bảo các chỉ số suy giảm sức khoẻ về thính lực, thị lực, trí lực thông qua kỳ kiểm tra định kỳ hàng năm.

Hay ở Đan Mạch, người tàn tật hưởng trợ cấp xã hội khi suy giảm tới 50% khả năng lao động, có 3 năm cú trú hợp pháp tại Đan Mạch và đảm bảo điều kiện thẩm tra thu nhập…

Các quốc gia có điều kiện kinh tế khó khăn hơn, nhu cầu trợ giúp cho đối tượng nhiều hơn vì vậy, với những hạn chế của mình tiêu chí xác định đối tượng hưởng thường chú trọng đến điều kiện kinh tế, nguồn thu nhập và nhu cầu thực tế trong tương quan khả năng đáp ứng. 

Do những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, lịch sử, kinh tế xã hội… nên đối tượng có nhu cầu trợ giúp ở Việt Nam là rất lớn, hoàn cảnh khó khăn của các đối tượng cũng khác nhau và sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng cũng chỉ trong chừng mực nhất định.

Chính vì vậy, pháp luật trợ giúp cũng quy định cụ thể phạm vi đối tượng trợ giúp xã hội với những tiêu chí xác định đối tượng hưởng cụ thể, chú trọng đến các điều kiện về kinh tế như xác định hộ gia đình nghèo, không có nguồn thu nhập, tình trạng sức khoẻ hoặc nhân thân cụ thể của đối tượng…

Với mục đích trợ giúp nhằm đảm bảo duy trì cuộc sống với các nhu cầu cơ bản cho đối tượng chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên được áp dụng với các đối tượng và các nguyên nhân khác nhau không thể tự đảm bảo cuộc sống của bản thân trong thời gian dài hoặc trong suốt cuộc đời.

Theo pháp luật hiện hành, đối tượng trợ giúp xã hội thường xuyên bao gồm: 

– Trẻ em mồ côi: Đây là nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cần được quari tâm và trợ giúp bởi các em mất nguồn nuôi dưỡng, chăm sóc của bố mẹ. Việc xác định trẻ em mồ côi hưởng trợ cấp xã hội được căn cứ trên cơ sở của độ tuổi, tình trạng mồ côi và khả năng nương tựa vào những người thân thích.

Cụ thể, theo pháp luật hiện hành, trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp xã hội là người chưa thành niên dưới 16 tuổi trong tình trạng: 

+ Trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, bị bỏ rơi mất nguồn nuôi dưỡng; 

+ Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại mất tích theo quy định của pháp luật (Điều 88 Bộ luật dân sự) hoặc không đủ năng lực, khả năng nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; 

+ Trẻ em có cả cha và mẹ hoặc cha mẹ đang trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, không còn người nuôi dưỡng;

+ Trẻ em nhiễm HIV thuộc hộ gia đình nghèo. 

Ngoài ra, những đối tượng là người chưa thành niên từ đủ 16 đến 18 tuổi nhưng đang đi học văn hoá, học nghề có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên cũng là đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên. 

Như vậy, điều kiện hưởng cho đối tượng trẻ em mồ côi được mở rộng không chỉ giới hạn độ tuổi dưới 16 mà còn mở rộng với một số trường hợp từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi nhằm đảm bảo quyền lợi cho đối tượng trong tương quan chung với chính sách chăm sóc và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặt biệt, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em…

Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng trong điều kiện kinh tế còn khó khăn và thực tế phải tham gia quan hệ lao động khá sớm, đặc biệt tương quan chung về điều kiện chủ thể trong luật lao động là đủ 15 tuổi cho thấy việc quy định độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên tỏ ra “có lợi” cho đối tượng trẻ em mồ côi so với các đối tượng khác.

Cũng cần lưu ý rằng trong nhóm đối tượng trẻ em mồ côi không phải tất cả các đối tượng trẻ em này đều mất cả cha và mẹ mà có thể chỉ mất nguồn nuôi dưỡng, thậm chí họ vẫn còn cha và mẹ. 

– Người già cô đơn: Bảo vệ và chăm sóc người già là trách nhiệm chung của Nhà nước và toàn dân. Căn cứ vào điều kiện khác nhau mà mỗi quốc gia có quy định cụ thể về độ tuổi xác định người già.

Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh người cao tuổi ngày 28/4/2000 “người cao tuổi là công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên” vì vậy trong quy định của chế độ trợ giúp xã hội độ tuổi xác định đối tượng người già hưởng trợ cấp xã hội là từ 60 tuổi trở lên.

Trước đây, tại Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội và các văn bản hướng dẫn đối tượng người già cô đơn được hưởng trợ cấp được xác định đối với nam và nữ tương ứng với độ tuổi 60 đối với nam và 55 đối với nữ với căn cứ họ hết tuổi lao động.

Hiện nay việc thống nhất độ tuổi là 60 theo quy định tại Pháp lệnh người cao tuổi là phù hợp với thực tiễn và tương quan chung các ngành luật. Điều kiện để được hưởng trợ cấp xã hội đối với người già cô đơn được quy định: 

+ Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo;

+ Người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu không có con cháu, người thân thích để nương tựa và gia đình thuộc hộ nghèo. 

– Tiêu chí hộ gia đình nghèo được xác định theo chuẩn nghèo quốc gia được Chính phủ quy định theo từng giai đoạn cụ thể. 

Với những đặc điểm của người già cô đơn như sức khoẻ suy giảm, thậm chí không còn khả năng lao động các nhu cầu bảo vệ tăng cao như chi phí sinh hoạt phục vụ cho nhu cầu sinh sống cơ bản, chi phí y tế, sự cô đơn tuyệt vọng trước khó khăn của cuộc sống…

Vì vậy, cần có sự trợ giúp từ hệ thống an sinh xã hội. Trong điều kiện kinh tế ở Việt Nam, một trong những tiêu chí quan trọng để xác định đối tượng hưởng là điều kiện kinh tế, vì vậy, để được hưởng trợ cấp xã hội đối tượng người già còn phải đảm bảo đang ở trong tình trạng kinh tế khó khăn với mức xác định là thuộc hộ nghèo được ủy ban nhân dân cấp xã công nhận.

Đây cũng là điều kiện mà hầu hết các quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển, còn nhiều khó khăn quy định cho đối tượng hưởng trợ cấp từ nguồn tài chính công. 

Đối với nhóm đối tượng người già cô đơn hưởng trợ cấp có thể nhận thấy yếu tố sức khoẻ không phải là điều kiện quan trọng đặt ra để xác định đối tượng hưởng, điều này dẫn đến thực tế có nhiều người đạt được yêu cầu về độ tuổi nhưng vẫn còn khoẻ mạnh, còn khả năng lao động tự nuôi sống bản thân nhưng lại đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về điều kiện hưởng theo pháp luật hiện hành và vì vậy, về nguyên tắc họ thuộc diện hưởng trợ cấp.

Nếu vậy, việc thụ hưởng trợ cấp đối với họ góc độ nào đó không tỏ ra công bằng trong tương quan với các đối tượng thực sự khó khăn, không có khả năng lao động duy trì cuộc sống.

Điều này được khắc phục bởi thực tế đối tượng hưởng còn phải đảm bảo điều kiện xét duyệt ở địa phương, song từ góc độ pháp luật cũng nhận thấy chưa thực sự công bằng và bao quát hết đối tượng trên phạm vi rộng, đặc biệt trong xu hướng già hoá dân số, xu hướng tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động hiện nay.

Ở một số quốc gia có hệ thống trợ giúp xã hội phát triển như Canada, Thụy Điển, Đan Mạch mặc dù phạm vi đối tượng người già hưởng trợ cấp được mở rộng song họ vẫn giữ nguyên những yêu cầu về sức khoẻ nhằm xác định khả năng lao động của người già.

Để được hưởng khoản trợ cấp này người già phải qua một kỳ kiểm tra sức khoẻ toàn diện với những tiêu chí xác định độ suy giảm sức khoẻ, đây sẽ là điều kiện xét hưởng trợ cấp với những mức hưởng khác nhau. 

Thực tế cho thấy, sự tồn tại và ngày càng gia tăng số lượng người già không nơi nương tựa trong xã hội đang trở thành vấn để áp lực đối với sự tăng trưởng và phát triển xã hội ở Việt Nam.

Với điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng được nâng cao và những khía cạnh tiêu cực của đạo đức, lối sống trong điều kiện nền kinh tế thị trường dẫn đến thực trạng số lượng người già không nơi nương tựa ngày càng gia tăng.

Điều này cũng dẫn đến thực tế là mặc dù có nhiều đối tượng đáp ứng được các tiêu chí xác định đối tượng song họ còn phải đảm bảo thủ tục với những lựa chọn theo thứ tự ưu tiên bởi sự hạn chế của nguồn tài chính thực hiện. Cũng vì vậy, việc xã hội hoá thực hiện trợ giúp xã hội đối với người già cô đơn được chú trọng với sự tham gia của cộng đồng dân chúng. 

– Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội.

Đây là nhóm đối tượng mới được bổ sung trong đối tượng hưởng trợ cấp xã hội thời gian gần đây xuất phát từ nhu cầu trợ giúp của đối tượng và khả năng đáp ứng của điều kiện kinh tế.

Điều kiện hưởng của nhóm đối tượng này được xác định với độ tuổi rất cao, 85 tuổi và không xem xét đến tình trạng kinh tế, tài sản. Từ góc độ bảo vệ của hệ thống an sinh xã hội, những đối tượng này phải đảm bảo điều kiện không có khoản trợ cấp nào từ hệ thống an sinh như lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội.

Lương hưu ở đây được hiểu là khoản trợ cấp hưu trí hàng tháng theo quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội, các khoản trợ cấp bảo hiểm khác là những khoản trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp hàng tháng, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, trợ cấp hàng tháng của công nhân cao su, cán bộ xã nghi việc… (Điều 1 Thông tư liên tịch số 20/TTLT-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP).

Từ thực tế thực hiện trợ cấp đối với nhóm đối tượng này cho thấy để đảm bảo quyền lợi cho đối tượng và đảm bảo ý nghĩa của trợ cấp ưu đãi xã hội nên sau một thời gian thực hiện, ngày 18/8/2010 Thông tư liên tịch số 24/TTLT-BLĐTBXH-BTC ra đời đã có hướng dẫn bổ sung thêm đối tượng người từ 85 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp theo quy định của pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng mà không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội vẫn được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên. 

– Người tàn tật (khuyết tật) nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ. Theo Luật người khuyết tật năm 2010, người khuyết tật được định nghĩa là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” (Điều 2 Luật người khuyết tật).

Các dạng tật mà người khuyết tật gặp phải rất đa dạng, bao gồm khuyết tật vận động, nghe nói, nhìn, thần kinh, tâm thần, trí tuệ… với các mức độ khác nhau.

Để đảm bảo thực hiện quyền cho người khuyết tật, pháp luật hiện hành cũng quy định mức độ khuyết tật với 3 mức nhẹ, nặng và đặc biệt nặng. Nhìn chung, tất cả người tàn tật đều được hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể nhưng không có nghĩa mọi đối tượng là người khuyết tật đều được hưởng trợ cấp từ hệ thống trợ giúp xã hội.

Chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên chỉ áp dụng đối với hai loại đối tượng người khuyết tật là người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt nặng, theo Luật người khuyết tật, hai nhóm đối tượng này được xác định:

– Người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; 

– Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày; 

Về điều kiện hưởng trợ cấp, theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thì những đối tượng là người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng phải đảm bảo điều kiện là không có khả năng lao động hoặc khả năng tự phục vụ.

Với đối tượng người khuyết tật nặng không có khả năng lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể lao động được hội đồng xét duyệt cấp xã công nhân hoặc bệnh viện cấp huyện trở lên xác nhận.

Tiêu chí độ tuổi theo quy định ở đây được đặt trong tương quan chung với luật lao động, nhằm đảm bảo yêu cầu người khuyết tật không có khả năng lao động khi họ trong độ tuổi lao động. Người khuyết tật không có khả năng tự phục vụ là người khuyết tật không có khả năng tự phục vụ sinh hoạt cá nhận được hội đồng xét duyệt cấp xã công nhận hoặc bệnh viện cấp huyện trở lên xác nhận.

Cùng với việc quy định điều kiện hưởng này pháp luật cũng quy định cụ thể về hồ sơ, thủ tục xét duyệt đối tượng. Xem xét về điều kiện hưởng của nhóm đối tượng người khuyết tật cho thấy trước đây, tại Nghị định số 67/2007/NĐ CP điều kiện hưởng được xác định chặt chẽ hơn với yêu cầu người khuyết tật phải thuộc hộ gia đình nghèo. Có thể nói, trong giai đoạn này, điều kiện kinh tế trở thành một tiêu chí quan trọng cho việc xác định đối tượng.

Tuy nhiên, đến năm 2010 bằng Nghị định số 13/2010/NĐ-CP điều kiện này đã bị loại bỏ nhằm mở rộng phạm vi đối tượng hưởng và đảm bảo quyền lợi cho người khuyết tật.

Cũng đề cấp quy định tại Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, đối tượng người người mắc bệnh tâm thần, được quy định là nhóm đối tượng riêng hưởng trợ cấp với điều kiện thuộc loại tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần những chưa thuyên giảm và có kết luận mãn tính, sống không nơi nương tựa hoặc thuộc hộ gia đình nghèo. Sau đó, tại Nghị định số 13/2010/NĐ-CP cũng đã loại bỏ điều kiện sống không nơi nương tựa hoặc thuộc hộ gia đình nghèo.

Tuy nhiên, đặt trong tương quan phù hợp với quy định về xác định đối tượng và chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật tại Luật người khuyết tật năm 2010 cho thấy, việc xác định đối tượng người khuyết tật với các dạng khuyết tật đã bao gồm cả nhóm đối tượng người tâm thần này.

Vì vậy, để cập nhóm đối tượng người khuyết tật hưởng trợ cấp xã hội cần xác định bao gồm cả nhóm đối tượng người tâm thần với điều kiện xác định theo pháp luật hiện hành. 

– Người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động, thuộc hộ gia đình nghèo. 

Đây là nhóm đối tượng lần đầu tiên được quy định trong Nghị định số 67/2007/NĐ-CP sau nhiều ý kiến khác nhau về nhóm đối tượng này.

Có quan điểm cho rằng cần xem xét đến nguyên nhân, lý do của tình trạng nhiễm HIV/AIDS để xét hưởng trợ cấp, theo đó người nhiễm HIV/AIDS vì những lý do. lệch lạc chuẩn mực đạo đức không thuộc nhóm đối tượng hưởng bởi sẽ trở thành gánh nặng cho công tác xã hội với sự ý lại vào “lưới đỡ” cuối cùng của xã hội này.

Tuy nhiên, từ thực tế hoàn cảnh sống của đối tượng và vì mục đích nhân đạo, đối tượng nhiễm HIV/AIDS đã được quy định như một nhóm đối tượng hưởng trợ giúp xã hội với điều kiện không còn khả năng lao động và thuộc hộ gia đình nghèo.

Việc xác định đối tượng nhiễm HIV/AIDS được thực hiện theo Quyết định số 3052/2000/QĐ-BYT ngày 29/8/2000 của Bộ trưởng Bộ y tế về việc ban hành tiêu chuẩn phòng xét nghiệm được phép khẳng định các trường hợp HIV dương tính.

Điều kiện không còn khả năng lao động được hội đồng xét duyệt cấp xã công nhận hoặc bệnh viện cấp huyện trở lên xác nhận.

Với hai tiêu chí về sức khoẻ và hoàn cảnh kinh tế cho thấy phạm vi đối tượng hưởng rất hẹp, đối tượng ở trong tình trạng quá khó khăn, cơ hội duy trì cuộc sống hạn chế và là gánh nặng cho gia đình, vì vậy trong tương quan chung về đảm bảo nhân quyền, đảm bảo ý nghĩa và mục đích của trợ giúp xã hội nói riêng và an sinh xã hội nói chung thì việc thực hiện trợ giúp cho nhóm đối tượng này là hoàn toàn phù hợp. 

– Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi. 

Trong định hướng phát triển chính sách an sinh xã hội và xã hội hoá thực hiện an sinh xã hội, hoạt động trợ giúp xã hội là hoạt động thể hiện rõ nét nhất định hướng này.

Trước thực trạng đối tượng trợ giúp nhiều, đặc biệt là nhóm đối tượng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi pháp luật đã có những quy định cụ thể nhằm khuyến khích mô hình chăm sóc thay thế. Theo đó, cá nhân, gia đình nhận nuôi trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi cũng thuộc đối tượng hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên.

Những đối tượng trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi chính là những đối tượng thuộc phạm vi hưởng trợ cấp thường xuyên và nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội. T

hực tế cho thấy sự quá tải của các cơ sở bảo trợ xã hội và ưu điểm của mô hình chăm sóc thay thế là thiết lập không gian sống hoà nhập, trẻ em được chăm sóc và giáo dục kịp thời, xoá mặc cảm và thiết lập tình cảm gia đình khiến cho mô hình chăm sóc này đang thu hút sự quan tâm của cả cộng đồng.

Để hỗ trợ, giúp đỡ cho các cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em, pháp luật cũng có sự phân loại đối với từng nhóm trẻ em mồ côi như trẻ em từ 18 tháng tuổi trở lên, dưới 18 tháng tuổi hoặc trên 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc nhiễm HIV/AIDS… 

– Hộ gia đình có người khuyết tật nặng. 

Người khuyết tật không chỉ gặp khó khăn, hạn chế trong việc đảm bảo cuộc sống cho chính bản thân mình mà còn là gánh nặng, kéo theo sự khó khăn cho cả gia đình trong việc cưu mang, chăm sóc và cơ hội phát triển kinh tế.

Pháp luật hiện hành quy định nhóm đối tượng hộ gia đình thuộc phạm vi hưởng chế độ trợ giúp thường xuyên là những hộ gia đình có từ 2 người trở lên là người tàn tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ.

Những đối tượng này cũng chính là những đối tượng người khuyết tật nặng hưởng trợ cấp thường xuyên với những tiêu chí xác định theo quy định pháp luật. Căn cứ vào tình trạng thực tế của đối tượng mà chế độ hưởng cho hộ gia đình có các mức khác nhau căn cứ vào số lượng người khuyết tật trong gia đình và mức độ khuyết tật của đối tượng. 

– Người đơn thân nuôi con. 

Đối tượng người đơn thân nuôi con được hưởng trợ cấp xã hội bao gồm cả nam và nữ do gặp phải những khó khăn trong việc nuôi con nên được sự trợ giúp từ hệ thống trợ giúp xã hội.

Người đơn thân được hưởng trợ cấp xã hội theo quy định là những người thuộc 1 trong 3 trường hợp sau:

1) Không có chồng hoặc vợ,

2) Chồng hoặc vợ đã chết,

3) Chồng hoặc vợ mất tích theo quy định tại Điều 78 Bộ luật dân sự đang nuôi con đẻ, con nuôi hợp pháp.

Điều kiện cho người con là con đẻ hoặc con nuối hợp pháp dưới 16 tuổi, trường hợp con đang đi học văn hoá, học nghề thì được áp dụng đến dưới 18 tuổi.

Ngoài ra, điều kiện quan trọng cho nhóm đối tượng người đơn thân nuôi con này và yêu cầu về tình trạng kinh tế, đối tượng phải thuộc hộ gia đình nghèo theo chuẩn nghèo do Chính phủ quy định. 

Để được hưởng trợ cấp trợ giúp xã hội thường xuyên đối tượng phải đảm bảo thủ tục với quy định về hồ sơ, trình tự xin hưởng trợ cấp. Hồ sơ của đối tượng bao gồm:

1) Đơn đề nghị hưởng trợ cấp của đối tượng hoặc gia đình, người thân, người giám hộ theo mẫu quy định;

2) Sơ yếu lí lịch của đối tượng hưởng trợ cấp;

3) Biên bản họp hội đồng xét duyệt trợ cấp xã hội tại xã, phường, thị trấn hoặc văn bản xác nhận của bệnh viện cấp huyện trở lên.

Trường hợp có ý kiến thắc mắc, khiếu nại, tố cáo sau khi đã niêm yết danh sách công khai cần có văn bản kết luận của Hội đồng xét duyệt cấp xã. Hồ sơ được gửi tới ủy ban nhân dân cấp xã xét duyệt.

Trình tự, thủ tục xét duyệt hưởng trợ cấp được quy định tại Điều 4 Thông tư Liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC. Theo đó, trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày tiếp nhận đủ hồ sơ, hội đồng xét duyệt trợ cấp cấp xã tổ chức họp, xét duyệt hồ sơ đối tượng nếu đủ điều kiện hưởng sẽ niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã trong vòng 7 ngày và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.

Hết thời gian niêm yết nếu không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại thì hội đồng hoàn thiện hồ sơ và trình chủ tịch UBND cấp xã có văn bản gửi phòng lao động-thương binh và xã hội xem xét giải quyết.

Trường hợp có khiếu nại, tố cáo của công dân thì trong thời hạn 10 ngày hội đồng xét duyệt phải tiến hành xác minh và đưa ra kết luận công khai.

Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của cấp xã, phòng lao động-thương binh và xã hội có trách nhiệm thâm định trình chủ tịch UBND cấp huyện ra quyết định cho từng đối tượng. Quy định về thủ tục hưởng trợ cấp của đối tượng trợ giúp xã hội thường xuyên khá chặt chẽ.

Thực tế hoàn cảnh sống cụ thể và những khó khăn của đối tượng trong cuộc sống thể hiện rõ trong cộng đồng và điều này cũng được chuyển tải trong thủ tục xét duyệt ở các cấp địa phương.

Mặt khác, vì là khoản trợ cấp có tính xã hội áp dụng đối với những đối tượng đặc biệt khó khăn nên cũng có sự tác động lớn đến ý thức của bản thân và thân nhân người thụ hưởng, nếu không thực sự khó khăn, không thực sự cần thiết họ cũng không lạm dụng hoặc trục lợi khoản trợ cấp mang đầy ý nghĩa nhân đạo này. 

Chế độ hưởng trợ giúp thường xuyên 

Với các diện đối tượng trợ giúp xã hội thường xuyên theo pháp luật hiện hành có hoàn cảnh, môi trường sống, mức sống và nhu cầu trợ giúp khác nhau, do vậy, đòi hỏi sự linh hoạt trong việc thực hiện nhằm đạt được mục đích chung của trợ giúp xã hội.

Nguyên tắc chung cho việc thực hiện trợ cấp là ngoài phần đảm bảo của Nhà nước cần phát huy tối đa sức mạnh của bản thân đối tượng, cộng đồng và toàn xã hội. Với những người còn một phần sức lao động, còn người thân, còn gia đình… thì cố gắng phát huy sức mạnh nội lực, cộng đồng cùng với mức trợ cấp xã hội ổn định đời sống tại cộng đồng.

Trong trường hợp đặc biệt khó khăn, không thể lo liệu được cuộc sống thì được xem xét tiếp nhận vào nhà xã hội tại cộng đồng, trường hợp đặc biệt khó khăn không thể tự lo được cuộc sống, không có điều kiện sống tại gia đình hoặc nhà xã hội tại cộng đồng thì được tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội để nuôi dưỡng. 

Mức trợ cấp cụ thể cho các đối tượng trợ giúp xã hội thường xuyên được xác định và điều chỉnh trong mối quan hệ chung với mức trợ cấp của các đối tượng chính sách khác, phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước và điều kiện thực tế của địa phương.

Do đặc điểm cụ thể của đối tượng và mục đích trợ giúp xã hội thường xuyên nên mức trợ cấp được quy định trên cơ sở của chi phí sinh hoạt tối thiểu để đảm bảo cuộc sống (không phải mức tiền lương tối thiểu).

Tuỳ thuộc vào hình thức nuôi dưỡng tập trung hay tại cộng đồng mà mức trợ cấp xã hội thường xuyên được xác định ở mức tối thiểu khác nhau. Pháp luật cũng có những quy định tuỳ nghi trong việc xác định mức trợ cấp xã hội thường xuyên bằng việc cho phép chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bộ trưởng các bộ, thủ trưởng các ngành, đoàn thể ở Trung ương nơi có cơ sở bảo trợ xã hội có thể điều chỉnh mức trợ cấp cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương nhưng không thấp hơn mức quy định tối thiểu của pháp luật.

Thực tế cho thấy hầu hết các địa phương đều nâng mức trợ cấp cho các đối tượng tuỳ thuộc vào nguồn tài chính của mình. Theo pháp luật hiện hành, trợ cấp xã hội thường xuyên được quy định mức chuẩn (bằng hệ số 1,0) và khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi thì mức chuẩn này cũng được điều chỉnh cho phù hợp.

Mức trợ cấp thường xuyên hàng tháng được quy định thấp nhất cho các nhóm đối tượng:

1) Sống tại cộng đồng do xã phường quản lý với hệ số thấp nhất từ 1,0 tới mức cao nhất là 4,0 tùy thuộc vào mức độ rủi ro và hoàn cảnh khó khăn của từng nhóm đối tượng;

2) sống tại các nhà xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý với mức trợ cấp hệ số 2,0 và 3) sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội với mức trợ cấp hệ số từ 2,0 tới 2,5 (xem thêm Nghị định số 67/2007/NĐ-CP và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn).

Trường hợp đối tượng thuộc diện hưởng các mức khác nhau ở cả 3 nhóm đối tượng trên thì chỉ được hưởng một mức cao nhất. 

Bên cạnh khoản trợ cấp hàng tháng, chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên còn đảm bảo cho các đối tượng được hưởng các quyền lợi sau: 

– Bảo hiểm y tế và hỗ trợ mai táng phí. Các đối tượng trợ giúp xã hội thuộc nhóm người khuyết tật, trẻ em mồ côi, người cao tuổi, người già từ 85 tuổi trở lên, người nhiễm HIV/AIDS, người khuyết tật trong các hộ gia đình có từ 2 người trở lên, trẻ em được cá nhân hộ gia đình nhận nuôi dưỡng, và trẻ em là con của người đơn thân được cấp thẻ bảo hiểm y tế với nguồn phí đóng góp bảo hiểm y tế do Nhà nước đảm bảo.

Những đối tượng này khi chết được hỗ trợ mai táng phí với mức quy định cụ thể, trường hợp đối tượng thuộc diện được hỗ trợ các mức mai táng phí khác nhau thì chỉ được hỗ trợ một mức mai táng phí cao nhất. 

– Các đối tượng đang học văn hoá, học nghề được miễn giảm học phí, được cấp sách vở đồ dùng học tập theo mức quy định cụ thể. Riêng với đối tượng trẻ em còn được hưởng sự trợ giúp trong lĩnh vực học tập, đào tạo nghề và bố trí sắp xếp việc làm.

Trẻ em từ 13 tuổi trở lên trong các cơ sở bảo trợ không còn học văn hoá thì được giới thiệu đến các trung tâm dy nghề để học nghề, địa phương bố trí việc làm theo khả năng lao động… phù hợp với điều kiện từng đối tượng, tạo cơ hội hoà nhập cộng đồng (xem thêm các điều 9, 10 Nghị định số 67/2007/NĐ-CP).

– Các đối tượng sống tại các cơ sở bảo trợ thuộc Nhà nước quản lý, ngoài trợ cấp hàng tháng, các quyền lợi bảo hiểm y tế, các khoản hỗ trợ khác… còn được hưởng thêm các khoản trợ cấp mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ sinh hoạt hàng ngày, trợ cấp mua thuốc chữa bệnh thông thường, riêng người nhiễm HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội, trợ cấp mua sách giáo khoa và đồ dùng học tập đối với trẻ em đi học, trợ cấp hàng tháng vệ sinh cá nhân đối với đối tượng nữ trong độ tuổi sinh đẻ… 

Tài chính đảm bảo thực hiện trợ giúp xã hội thường xuyên 

Trong chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên, tài chính đảm bảo thực hiện chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Các khoản chi trong chế độ trợ giúp thường xuyên chủ yếu bao gồm kinh phí chi trả trợ cấp hàng tháng cho đối tượng sống tại cộng đồng và kinh phí nuôi dưỡng đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội, ngoài ra còn có các kinh phí khác cho hoạt động quản lý, xây dựng cơ sở bảo trợ xã hội…

Nguồn tài chính đảm bảo cho các khoản chi được ngân sách nhà nước đảm bảo và thực hiện theo Luật ngân sách nhà nước. Cụ thể: 

– Kinh phí chi trả trợ giúp xã hội hàng tháng đối với đối tượng thuộc diện trợ cấp thường xuyên do xã, phường, thị trấn quản lý và đối tượng sống trong nhà xã hội tại cộng đồng được bố trí trong dự toán chi đảm bảo xã hội theo phân cấp ngân sách của địa phương. 

– Kinh phí trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng cho các đối tượng sống trong cơ sở bảo trợ công lập thì do ngân sách cấp quản lý đảm bảo trong dự toán chi đảm bảo xã hội, nếu sống trong các cơ sở ngoài công lập thì được bố trí trong dự toán chi đảm bảo xã hội của ngân sách cấp huyện. 

– Kinh phí tuyên truyền, phổ biến chính sách khảo sát thống kê, quản lý đối tượng, kinh phí chi trả trợ cấp…thuộc cấp nào thì do ngân sách cấp đó đảm bảo theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và văn bản hướng dẫn.

Song song với nguồn tài chính được đảm bảo từ ngân sách nhà nước phân bổ cho các địa phương, pháp luật hiện hành cũng khuyến khích các địa phương, cơ quan chủ quản các cơ sở bảo trợ nâng cao mức kinh phí trợ cấp và nuôi dưỡng cho các đối tượng từ nguồn ngân sách địa phương đảm bảo nâng cao hơn đời sống của đối tượng.

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc huy động sự tham gia và khả năng tài chính của cộng đồng trong trợ giúp xã hội là vô cùng quan trọng.

Đối với chế độ trợ giúp xã hội thường xuyên, bên cạnh các khoản trợ cấp cơ bản, hiện này kinh phí cho hoạt động trợ giúp xã hội cũng hướng tới những cơ chế đảm bảo cho đối tượng tự mình vươn lên khắc phục rủi ro, hoà nhập cộng đồng.

Định hướng cho họ là “trao cho họ cần câu chứ không phải xâu cá” nên hoạt động trợ giúp cần hướng tới cung cấp những cơ hội, phát huy tối đa khả năng còn lại của đối tượng cùng với sự trợ giúp của cộng đồng dân chúng địa phương nhằm khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống theo hướng bền vững.

Mặt khác, Nhà nước cũng huy động tài chính của cả cộng đồng thể hiện trong việc khuyến khích thiết lập các quỹ nhân đạo, trợ giúp cho các nhóm đối tượng, cơ sở bảo trợ của các tổ chức xã hội, tôn giáo, các tổ chức quốc tế… 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thủ tục làm chế độ nghỉ chăm con ốm đau mới nhất

Chế độ nghỉ chăm con ốm đau là một quyền lợi của người lao động khi phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau. Người lao động được hưởng tiền bảo hiểm xã hội trong thời gian nghỉ chăm con ốm theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội...

Có thể nhờ người khác nhận tiền đền bù tai nạn lao động không?

Có thể nhờ người khác nhận tiền đền bù tai nạn lao động không? Quý vị hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua nội dung bài viết sau...

Người sử dụng lao động phải trả những chi phí nào cho người bị tai nạn lao động?

Nếu người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, thì ngoài việc phải bồi thường, trợ cấp theo quy...

Đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động thì có được nhận thêm trợ cấp khuyết tật không?

Người khuyết tật thuộc đối tượng được hưởng nhiều chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội cùng loại chỉ được hưởng một chính sách trợ giúp cao...

Khám dịch vụ có được hưởng bảo hiểm y tế không?

Đối với các dịch vụ không được chỉ định theo yêu cầu chuyên môn hoặc không thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế: Người bệnh tự chi trả toàn bộ chi phí các dịch vụ...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi