• Thứ ba, 14/05/2024 |
  • Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương |
  • 695 Lượt xem

Thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia

Điều 72 là điều luật khá đặc biệt, toàn bộ hoạt động về thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia được quy định trong một điều luật.

Quy định về Thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia như thế nào?

Điều 72 Bộ luật lao động quy định về Thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia như sau:

Điều 72. Thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia

1. Nguyên tắc, nội dung thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia thực hiện theo quy định tại 

Điều 66 và Điều 67 của Bộ luật này.

2. Quy trình tiến hành thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia do các bên thỏa thuận quyết định, bao gồm cả việc thỏa thuận tiến hành thương lượng tập thể thông qua Hội đồng thương lượng tập thể quy định tại Điều 73 của Bộ luật này.

3. Trường hợp thương lượng tập thể ngành thì đại diện thương lượng là tổ chức công đoàn ngành và tổ chức đại diện người sử dụng lao động cấp ngành quyết định. 

Trường hợp thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia thì đại diện thương lượng do các bên thương lượng quyết định trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận. 

Bình luận về Thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia

Điều 72 là điều luật khá đặc biệt, toàn bộ hoạt động về thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia được quy định trong một điều luật. 

| Bản chất thương lượng tập thể ngành cũng là một trường hợp của thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia, song trong điều kiện đặc thù của Việt Nam, nó được tách thành một trường hợp với một số quy định riêng. Tại thời điểm hiện nay, tổ chức của người lao động không thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam mới chỉ được thành lập và hoạt động ở cấp doanh nghiệp.

Ở cấp ngành mới chỉ có hệ thống công đoàn ngành thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, nên quy định riêng đối với thương lượng tập thể ngành trong Điều 72 chỉ là quy định về chủ thể bên người lao động trong trường hợp thương lượng tập thể ngành được chỉ rõ là công đoàn ngành. Đối với các nội dung khác, điều luật quy định áp dụng chung đối với cả thương lượng tập thể ngành và thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia. 

Về nguyên tắc, nội dung thương lượng, khoản 1 Điều 72 không đưa ra quy định riêng đối với thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia, mà thực hiện theo các nguyên tắc chung của thương lượng tập thể quy định tại Điều 66 và Điều 67 của BLLĐ. 

Đối với các nội dung khác, cách quy định của Điều 72 là tôn trọng tối đa sự tự nguyện trong thương lượng tập thể nên đã trao quyền cho các bên thương lượng tự quyết định trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, cụ thể: 

– Quy trình tiến hành thương lượng tập thể ngành, thương lượng tập thể có nhiều doanh nghiệp tham gia do các bên thỏa thuận quyết định. Điều này có nghĩa là việc thương lượng như thế nào hoàn toàn do chính các bên tự xác định với nhau. Pháp luật không quy định về quy trình các bên phải theo mà chỉ ghi nhận và tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận đó. 

– Đại diện thương lượng cũng do các bên thương lượng quyết định trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận. Riêng đối với thương lượng tập thể ngành thì do chủ thể thương lượng đã được xác định là tổ chức công đoàn ngành và tổ chức đại diện người sử dụng lao động cấp ngành nên điều luật quy định trao quyền cho những chủ thể này quyết định về đại diện thương lượng. 

Thương lượng tập thể ở các cấp ngoài doanh nghiệp rất đa dạng, nó có thể là theo ngành, nghề hoặc theo địa lý vùng, miền hoặc cũng có thể chỉ là một nhóm doanh nghiệp theo một ngành, nghề hoặc khu vực địa lý nào đó. Mỗi phạm vi, cấp độ thương lượng khác nhau lại có thể có quy trình, chủ thể và đại diện thương lượng khác nhau, nên cách quy định của Điều 72 là cách quy định phù hợp, theo đó, pháp luật không đưa ra những quy định cụ thể về quy trình, chủ thể đại diện thương lượng mà trao quyền cho các bên quyết định trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận.

Cách quy định này vừa bảo đảm phù hợp với nguyên tắc tự nguyện của thương lượng tập thể, vừa bảo đảm phù hợp với tính đa dạng của thương lượng tập thể ở các cấp ngoài doanh nghiệp. 

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động?

Hợp đồng lao động được chia làm hợp đồng có xác định thời hạn và hợp đồng không xác định thời hạn theo quy định của pháp luật lao...

Nghỉ hưu trước tuổi có được hưởng trợ cấp thôi việc không?

Trợ cấp thôi việc do người sử dụng lao động trả cho người lao động làm việc cho đơn vị mình theo các trường hợp mà pháp luật về lao động quy...

Chế độ bảo vệ thai sản đối với lao động nữ được quy định như thế nào?

Do độ tuổi sinh sản của lao động nữ nằm trong độ tuổi lao động, nên hầu hết lao động nữ đều trải qua thời kỳ mang thai, sinh con và nuôi con khi làm...

Tai nạn lao động là gì? Trường hợp nào được coi là tai nạn lao động?

Tai nạn lao động là một trong những nội dung được quy định trong Luật bảo hiểm xã hội cùng với Bộ luật lao động và Luật an toàn vệ sinh lao động cùng các văn bản hướng dẫn liên...

Trường hợp nào được tạm hoãn hợp đồng lao động?

Tạm hoãn hợp đồng lao động chính là một sự kiện pháp lý rất đặc biệt, nó biểu là sự tạm thời không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của hai bên trong một khoảng thời gian nhất định. Đồng thời, hợp đồng lao động vẫn tồn tại mà không phải bị hủy bỏ hay hết hiệu...

Xem thêm