Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hai bên trong giải quyết tranh chấp lao động
  • Thứ năm, 21/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 2454 Lượt xem

Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hai bên trong giải quyết tranh chấp lao động

Một trong những nguyên tắc quan trọng của giải quyết tranh chấp lao động là tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp

Khái niệm quyền và nghĩa vụ của hai bên trong giải quyết tranh chấp lao động

Căn cứ Điều 182 Bộ luật lao động năm 2019 quy định như sau:

Điều 182. Quyền và nghĩa vụ của hai bên trong giải quyết tranh chấp lao động

1. Trong giải quyết tranh chấp lao động, các bên có quyền sau đây:

a) Trực tiếp hoặc thông qua đại diện để tham gia vào quá trình giải quyết;

b) Rút yêu cầu hoặc thay đổi nội dung yêu cầu;

c) Yêu cầu thay đổi người tiến hành giải quyết tranh chấp lao động nếu có lý do cho rằng người đó có thể không vô tư hoặc không khách quan.

2. Trong giải quyết tranh chấp lao động, các bên có nghĩa vụ sau đây:

a) Cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình;

b) Chấp hành thỏa thuận đã đạt được, quyết định của Ban trọng tài lao động, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hai bên trong giải quyết tranh chấp lao động

Bình luận và phân tích quyền và nghĩa vụ của hai bên trong giải quyết tranh chấp lao động

Điều 182 Bộ luật Lao động quy định về các quyền và nghĩa vụ cơ bản nhất của các bên trong giải quyết tranh chấp lao động. Theo đó, các bên có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

Thứ nhất, có quyền trực tiếp hoặc thông qua đại diện để tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp

Người lao động và người sử dụng lao động là cá nhân có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Người sử dụng lao động là tổ chức (ví dụ: cơ quan, doanh nghiệp…) bao giờ cũng tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp thông qua người đại diện (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền). Việc tham gia của người đại diện trong quy định này nên hiểu bao gồm cả người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đương nhiên, người đại diện cho các bên tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp lao động phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định như về độ tuổi, năng lực hành vi dân sự… và về thủ tục ủy quyền xác nhận người đại diện… phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, có quyền rút đơn yêu cầu hoặc thay đổi nội dung yêu cầu

Một trong những nguyên tắc quan trọng của giải quyết tranh chấp lao động là tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp. Nguyên tắc này được thể hiện trước hết ở việc khi các bên có yêu cầu giải quyết thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền mới tiến hành giải quyết và các cơ quan, tổ chức, cá nhân này chỉ được giải quyết trong phạm vi yêu cầu của các bên. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên vẫn có quyền thay đổi nội dung yêu cầu của mình, thậm chí là rút đơn yêu cầu kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp lao động.

Thứ ba, có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành giải quyết tranh chấp lao động nếu có lý do cho rằng người đó có thể không vô tư hoặc không khách quan

Một trong những nguyên tắc, đồng thời cũng là yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp lao động là tính vô tư và khách quan. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào người tiến hành giải quyết tranh chấp, gồm: hòa giải viên lao động, Hội đồng trọng tài lao động, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện và tòa án nhân dân (hội đồng xét xử).

Trong đó, sự vô tư và khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động của hòa giải viên lao động và Hội đồng trọng tài lao động ít bị “đe dọa” hơn, bởi kết quả giải quyết tranh chấp do hai chủ thể này tiến hành về bản chất là do hai bên tranh chấp tự quyết định. Ngược lại, sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện và hội đồng xét xử có nguy cơ bị “đe dọa” nhiều hơn, bởi vì hai chủ thể này có quyền đơn phương ra quyết định về nội dung vụ tranh chấp buộc các bên phải thi hành.

Vì vậy, việc quy định “các bên có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành giải quyết tranh chấp lao động nếu có lý do cho rằng người đó có thể không vô tư hoặc không khách quan” rất có ý nghĩa. Ví dụ: người lao động có quyền đề nghị thay đổi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nếu có căn cứ chứng minh người này là người thân thích của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là bị đơn trong vụ án lao động. Tuy nhiên, bản thân yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng cũng phải có lý do, người yêu cầu cũng phải thực sự vô tư, không sử dụng quyền năng mà pháp luật trao cho một cách vô nguyên tắc.

Thứ tư, có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình

Trong giải quyết tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) nói chung, giải quyết tranh chấp lao động nói riêng, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân giải quyết tranh chấp chỉ tổ chức xác minh khi cần thiết. Vì vậy, để được các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thụ lý yêu cầu và giải quyết yêu cầu của mình, các bên phải cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Các tài liệu, chứng cứ này được gửi cùng với đơn yêu cầu và có thể bổ sung trong quá trình giải quyết tranh chấp (tự bổ sung hoặc thực hiện theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân giải quyết tranh chấp).

Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hai bên trong giải quyết tranh chấp lao động

Nghĩa vụ của hai bên tranh chấp  lao động

Thứ năm, Chấp hành thỏa thuận đã đạt được, quyết định của Ban trọng tài lao động, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

Tùy vào từng chủ thể giải quyết tranh chấp lao động mà kết quả giải quyết được thể hiện bằng một biên bản hòa giải (hòa giải viên lao động, hội đồng hòa giải lao động cơ sở), quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên (Hội đồng trọng tài lao động, tòa án nhân dân) hoặc quyết định, bản án (chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, tòa án nhân dân). Khi các biên bản, quyết định, bản án này có hiệu lực pháp luật, các bên tranh chấp có nghĩa vụ thi hành, vừa đảm bảo lợi ích cho các bên, vừa đảm bảo trật tự chung của xã hội. Nghĩa vụ thi hành nghiêm chỉnh kết quả giải quyết họp pháp có ý nghĩa với các bên và với xã hội. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan thì việc tự giác thi hành các biên bản hoà giải thành hoặc quyết định của Hội đồng trọng tài là không dễ dàng

Trong trường hợp cần tư vấn thêm, bạn có thể liên hệ với Luật sư của Công ty Luật Hoàng Phi qua TỔNG ĐÀI TƯ VẤN LUẬT MIỄN PHÍ 19006557 để được tư vấn. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (3 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào?

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào? Cùng chúng tôi tìm hiểu để có thêm thông tin giải đáp qua bài viết này...

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu?

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu? là thắc mắc được chúng tôi chia sẻ, làm rõ trong bài viết này. Mời Quý vị theo dõi, tham...

Hành vi nào được xem là tiết lộ bí mật kinh doanh?

Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh...

Ai có thẩm quyền ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động?

Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động là văn bản do người sử dụng lao động ban hành nhằm thông báo việc chấm dứt hợp đồng lao động với người lao...

Công ty có phải thông báo trước khi hợp đồng lao động hết thời hạn không?

Từ 1/1/2021, khi Bộ luật lao động 2019 có hiệu lực thi hành, công ty không phải thông báo với người lao động khi hợp đồng lao động hết thời...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi