Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp của các nước trên thế giới là?
  • Chủ nhật, 20/08/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 648 Lượt xem

Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp của các nước trên thế giới là?

Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp của các nước trên thế giới được Luật Hoàng Phi cung cấp đầy đủ thông tin qua nội dung bài viết.

Quyền sở hữu tài sản có đặc điểm nào?

 Nhìn chung, quyền sở hữu tài sản có những đặc điểm pháp lý sau đây:

+ Quyền sở hữu tài sản do pháp luật quy định và khách thể của quyền sở hữu bao gồm vật và các quyền về tài sản của một người;

+ Thời hạn của quyền sở hữu tài sản không bị hạn chế và đa phần tài sản của chủ sở hữu không buộc phải đăng ký.

Quan hệ sở hữu trí tuệ được điều chỉnh bằng pháp luật rất muộn so với quan hệ về quyền sở hữu tài sản mặc dù trên thực tế đã tồn tại sự sáng tạo không ngừng của con người trong quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh.

Cùng với lao động tạo ra của cải vật chất, con người còn tạo ra các sản phẩm tinh thần như các bài hát, bài thơ, câu chuyện phản ánh cuộc sống mọi mặt của con người. Cùng xuất phát từ lao động tạo ra vật chất, con người tạo ra những giải pháp kỹ thuật dưới dạng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp nhằm nâng cao hơn chất lượng cuộc sống của mình.

Quyền sở hữu trí tuệ là một quan hệ pháp luật đặc biệt vì khách thể của quyền sở hữu trí tuệ không phải là vật cụ thể mà là sản phẩm của lao động sáng tạo được thể hiện dưới dạng phi vật chất.

Nó chỉ được vật chất hóa khi được mang ra áp dụng vào sản xuất, kinh doanh. Khách thể của quyền sở hữu trí tuệ được phân | làm hai nhóm chính vận dụng trong đời sống tinh thần của con người và làm phong phú hơn nhu cầu tinh thần của con người và nhóm được áp dụng vào sản xuất, kinh doanh tạo ra các sản phẩm vật chất mang tính công nghệ.

– Đối với nhóm sản phẩm trí tuệ ở dạng không áp dụng vào sản xuất kinh doanh. là Khách thể của quan hệ pháp luật về quyền tác giả là những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học đã được tác giả sáng tạo.

Đó là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người được biểu hiện dưới hình thức khách quan nhất định. Phạm vi khách thể không phụ thuộc vào quy mô, dung lượng thông tin, khoa học, hàm lượng trí tuệ, hình thức được biểu hiện và chất lượng tốt, xấu.

Các thành quả của sáng tạo trí tuệ rất phong phú, đa dạng thuộc các loại hình nghệ thuật khác nhau về hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng tác phẩm có được cũng khác nhau.

– Tác phẩm văn học – nghệ thuật, khoa học là những sản phẩm tinh thần và là món ăn tinh thần cho bất kỳ ai tự giác tìm hiểu để tu dưỡng, để hiểu biết và để khám phá thế giới. Hơn nữa, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học không được thể hiện ở dạng vật chất nhất định mà nó chỉ thông qua vật chất để thể hiện tư tưởng của tác giả.

Vì vậy, sự vi phạm quyền tác giả rất khó kiểm soát trong một quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Quyền tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học là quyền đối với các sản phẩm trí tuệ và các sản phẩm trí tuệ là khách thể của quyền sở hữu trí tuệ và cần được bảo vệ như các tài sản khác.

Nhận thức được vấn đề đó, hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều ban hành Luật Bảo hộ quyền tác giả. Pháp luật về quyền tác giả do vậy đã được hiểu là công cụ pháp lý bảo hộ cho các cá nhân sáng tạo một sản phẩm trí tuệ có quyền đứng tên tác giả, quyền đặt tên tác phẩm, quyền thay đổi nội dung tác phẩm, quyền công bố tác phẩm và các quyền kế cận quyền tác giả. |

Pháp luật của các nước đều quy định tác giả và chủ sở hữu tác phẩm đều có quyền ngăn chặn người khác sử dụng tác phẩm của mình trái phép. Tác giả có quyền cho người khác sao chép hoặc mô phỏng tác phẩm, biểu diễn tác phẩm trước công chúng, dựng phim từ tác phẩm, phát thanh, truyền hình thông qua phổ biến điện từ hoặc dây cáp, phỏng dịch hoặc chuyển thể tác phẩm.

Quyền tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học luôn thuộc về cá nhân sáng tạo ra tác phẩm. Thường thì quyền tác giả không buộc phải đăng ký chính thức nhưng quyền đó được bảo hộ khi có hành vi xâm phạm.

Các nước trên thế giới quy định đối tượng bảo hộ quyền tác giả khác nhau, nội dung và thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền kề cận quyền tác giả cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nước trên thế giới đã lựa chọn mô hình Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo những tiêu chuẩn chung được quy định trong Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật.

Theo Công ước Berne thì thuật ngữ “các tác phẩm văn học và nghệ thuật” được hiểu rất rộng gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được biểu hiện dưới bất kỳ hình thức hay phương thức nào.

Do vậy, Điều 2 của Công ước Berne không định nghĩa thế nào là một tác phẩm văn học và nghệ thuật mà chỉ quy định hình thức biểu hiện của một tri thức, một lượng thông tin, một hình tượng, một động tác, một kỹ năng sáng tạo ở một dạng nhất định. Phạm vi tác phẩm văn học – nghệ thuật được bảo hộ rất rộng theo hình thức và tính chất thể hiện các sản phẩm trí tuệ rất khác nhau.

Tuy nhiên, theo Điều 2 của Công ước Berne thì luật pháp quốc gia thành viên của Liên hiệp có thẩm quyền quyết định không bảo hộ các sản phẩm nói chung hoặc những thể loại khác cụ thể nào đó, trong khi các tác phẩm ấy chưa được ấn định trên một hình thái vật chất.

Đối với nhóm khách thể quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng vào sản xuất kinh doanh. Và Những đối tượng sở hữu công nghiệp khi được áp dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh nó mang lại những lợi ích vật chất nhất định.

Quyền sở hữu các sản phẩm trí tuệ thuộc nhóm sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, công ty, doanh nghiệp đối với những thành quả sáng tạo như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí các mạch tích hợp, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa, bí mật thương mại, các quyền công nghệ sinh học và các giống thực vật.

Những đối tượng trên được luật pháp của các nước quy định đầy đủ hoặc không đầy đủ trong việc bảo hộ toàn bộ hay từng phần và có thời hạn. Việc bảo hộ hay không bảo hộ các đối tượng nêu trên còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi quốc gia và mức độ quan hệ của quốc gia đó với quốc gia khác.

Ngoài ra, còn do quan điểm lập pháp của mỗi quốc gia trong lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp. Nhưng nhìn chung, các nước tham gia vào các hiệp ước quốc tế đa phương hay song phương đều quan tâm đến việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ về nhóm đối tượng sở hữu công nghiệp.

Ví dụ, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của sở hữu trí tuệ TRIPS, Hiệp định này quy định những thủ tục thực hiện đối với Hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới có hiệu quả cao hơn so với các thủ tục thực hiện những hiệp định quốc tế khách.

Hiệp định TRIPS được tôn trọng áp dụng có hiệu quả vì nội dung của Hiệp định TRIPS đã quy định tương đối toàn diện hơn so với các Hiệp ước quan trọng của WIPO &; nhưng để thực hiện được 13 Hiệp định TRIPS được ký kết nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản sau:

– Khuyến khích việc bảo hộ có hiệu quả và thỏa đáng đối với quyền sở hữu trí tuệ;

– Bảo đảm cho các biện pháp và thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ không gây trở ngại đối với thương mại chính đáng.

* Hiện tại đã có khá nhiều các công ước, hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (được xem xét lại vào năm 1967 và sửa đổi lần cuối vào năm 1979); Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật (được xem xét lại năm 1971 và sửa đổi năm 1979); Công ước Roma về bảo hộ người biểu diễn, người đạo diễn các chương trình phát thanh, truyền hình; Hiệp định về sở hữu trí tuệ liên quan đến mạch tích hợp (IPIC) được thông qua tại Washington năm 1998.

Nhưng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo các công ước và hiệp ước nêu trên vẫn chưa thực đầy đủ và chưa bao quát hết được nhiều phương diện cơ bản thuộc quyền sở hữu trí tuệ. Thành viên của các công ước này rất đa dạng và không bao gồm hết các thành viên của WTO. Một số quy định về thoái hạn bảo hộ sáng chế cũng chưa được hiệu quả các Hiệp ước đó phải dựa vào những thủ tục giải quyết tranh chấp của Tổ chức Thương mại thế giới.

Nội dung của Hiệp định TRIPS quy định những chuẩn mực tối thiểu mà các thành viên tham gia vào Hiệp định TRIPS phải tuân thủ. Tuy nhiên, các quốc gia có quyền lựa chọn cách thức thi hành các quy định Hiệp định TRIPS cho phù hợp.

Đối với những nước theo truyền thống luật án lệ thông qua các phán quyết trước đây của Tòa án thì một phần bảo hộ đòi hỏi dành cho nhãn hiệu hàng hóa và thông tin mật được bảo đảm. Cụ thể như Australia không có luật chung dành riêng cho việc bảo hộ những thông tin mật. Do vậy, trong một thời gian dài nước này phải sử dụng án lệ để bảo vệ thông tin mật và thực chất Australia đã tuân thủ những quy định của TRIPS.

Nội dung Điều 1 của Hiệp định TRIPS đã quy định “Các thành viên phải thi hành các điều khoản của Hiệp định này. Các thành viên có thể nhưng không bị bắt buộc áp dụng trong luật của mình việc bảo hộ mạnh hơn so với các quyền yêu cầu của Hiệp định này, miễn là việc bảo hộ đó không trái với các điều khoản của Hiệp định này.

Các thành viên sẽ tự do quyết định phương pháp thích hợp nhằm thi hành các điều khoản của Hiệp định này trong hệ thống pháp luật và thực tiễn của mình”. Khoản 2 Điều luật trên quy định: “các thành viên phải chấp nhận cách đối xử được quy định trong Hiệp định này đối với công dân của các thành viên khác”.

Từ thực trạng trên, phải có những quy định về quyền và nghĩa vụ trong một công ước quốc tế đa phương có hiệu lực pháp lý cao nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả và theo đó giảm thiểu tối đa những hạn chế và những lệch lạc trong quan hệ thương mại quốc tế.

Có thể nhận định rằng, TRIPS là hiệp định đa phương quy định đầy đủ và toàn diện nhất về lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Nội dung những quy định của TRIPS về bản quyền có liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, bố trí mạch tích hợp, các thông tin cần giữ bí mật, kể cả bí quyết thương mại.

Đặc điểm chung của quyền sở hữu công nghiệp của các nước trên thế giới là gì?

Đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp của các nước trên thế giới là:

– Quyền sở hữu công nghiệp bị giới hạn về thời gian. Luật về sở hữu công nghiệp của mỗi nước chỉ quy định bảo hộ các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp trong một thời gian nhất định. Thời gian này là thời gian được pháp luật bảo hộ khi có hành vi cạnh tranh hoặc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể;

– Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp mang tính phi vật chất. Việc áp dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp vào sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra những loại hàng hóa mới có chất lượng cao, hình thức đẹp và đa dạng, phản ánh sức sáng tạo của chủ thể tạo ra những sản phẩm hàng hóa, góp phần làm tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Sự cạnh tranh giữa những nhà sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là sự thể hiện tính chất của lưu thông hàng hóa trên thị trường của một quốc gia và trên phạm vi toàn cầu;

Quyền sở hữu công nghiệp không những được bảo hộ tại nước có công dân sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ đó mà các thành quả sáng tạo đó còn được bảo hộ ở các nước thành viên của các công ước quốc tế và các hiệp ước quốc tế mà công dân đó thuộc nước thành viên. Các Điều ước quốc tế thường thỏa thuận về một số tiêu chuẩn cơ bản đối với việc bảo hộ từng loại quyền sở hữu trí tuệ.

Đặc biệt, các hệ thống đăng ký chung đã và đang được thiết lập để tạo điều kiện cho một đơn đăng ký duy nhất có hiệu lực ở tất cả các nước thành viên và chỉ áp dụng thống nhất một phương pháp trong việc phân loại các yếu tố khác nhau của quyền sở hữu trí tuệ được đăng ký. Nguyên tắc đãi ngộ như quốc gia đã được các nước thành viên của các hiệp ước và công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ tuân theo. Khái niệm đãi ngộ như quốc gia là nội dung cơ bản của mọi hiệp ước về sở hữu trí tuệ quốc tế.

Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện là mỗi quốc gia thành viên phải dành cho người ở nước khác là thành viên của hiệp ước sự bảo hộ tương tự như bảo hộ dành cho công dân của nước mình.

Ngoài chế độ đãi ngộ như quốc gia mà Hiệp định TRIPS đã quy định còn có nguyên tắc chế độ đãi ngộ tối huệ quốc cũng có nội dung tương tự như đãi ngộ quốc gia trong trường hợp một thành viên của Hiệp định TRIPS phải dành cùng một sự bảo hộ cho tất cả các thành viên tham gia Hiệp định TRIPS.

Ngoài hai nguyên tắc cơ bản trên, Hiệp định TRIPS còn quy định các trường hợp ngoại lệ được thừa nhận với điều kiện là các biện pháp đó không chống lại nội dung các quy định của Hiệp định TRIPS. Một đặc điểm rất quan trọng của hệ thống pháp Luật Sở hữu trí tuệ của tất cả các quốc gia trên thế giới là đều chống đặc quyền hoặc chống hạn chế thương mại.

Cho đến nay, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được triển khai trên quy mô quốc tế và sự hợp tác khu vực trong việc đăng ký, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã dẫn đến việc thành lập các liên minh sở hữu trí tuệ khu vực và các cơ quan đăng ký khu vực.

Trong khu vực châu Á có Liên minh sở hữu trí tuệ các nước ASEAN, ở Nam Mỹ có Hiệp định Andean, Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ và các Thỏa ước về sở hữu trí tuệ Liên minh châu Âu (EU).

Tại Điều 3 và Điều 4 của Hiệp định quy định các nguyên tắc và nghĩa vụ chung: “Mỗi thành viên sẽ dành cho công dân của các thành viên khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn so với sự đãi ngộ dành cho công dân nước mình đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” (Điều 3); “Về quyền sở hữu trí tuệ, bất kỳ sự ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào mà một thành viên dành cho công dân của bất kỳ một quốc gia nào khác sẽ được dành ngay lập tức và không điều kiện cho các công dân của tất cả các thành viên khác” (Điều 4).

Đặc điểm của sản phẩm trí tuệ

Do đặc điểm của các sản phẩm trí tuệ được hình thành rất đặc biệt và nó rất khác các loại tài sản khác là vật, do vậy việc bảo hộ nó không thể chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia bởi những thuộc tính của sản phẩm thuộc khách thể của quyền sở hữu trí tuệ.

Thứ nhất, những sản phẩm trí tuệ được bộ lộ ra bên ngoài dưới hình thức khách quan nhất định nhưng bản thân chúng không phải là vật chất mà là sản phẩm của sáng tạo. Sự định lượng và chất của sản phẩm trí tuệ không thể dùng các đại lượng đo lường thông thường mà phải căn cứ vào chính nội dung và phạm vi của sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới hình thức khách quan.

Hàm lượng trí tuệ, những tri thức, kiến thức, những giải pháp kỹ thuật có khả năng áp dụng vào đời sống tinh thần và chất của con người ngày một phong phú hơn. Đối với những tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học là sản phẩm của lao động trí tuệ đã mang đến cho người xem, người nghe những điều bổ ích nhằm làm tăng thêm sự hiểu biết của bản thân và nâng cao trình độ, kiến thức, chuyên môn và cách sống, đạo đức phù hợp với xã hội.

Đối với các sản phẩm trí tuệ được sáng tạo ra dưới dạng một sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, người sáng tạo đã không chỉ mang đến cho đất nước mình những giải pháp kỹ thuật làm biến đổi công nghệ như một cuộc cải cách nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất có hàm lượng trí tuệ cao đáp ứng tốt nhất nhu cầu sản xuất kinh doanh của cá nhân, của các tổ chức khi áp dụng các sản phẩm trí tuệ đó.

Thứ hai, các sản phẩm sáng tạo được coi là sản phẩm trí tuệ theo những điều kiện pháp luật của mỗi quốc gia quy định và qua đó quyền sở hữu được xác lập ở người sáng tạo. Những quyền đặc biệt liên quan đến nhân thân người sáng tạo không thể tách rời thuộc về người sáng tạo vĩnh viễn và không thể thay đổi là quyền đặt tên tác phẩm, quyền đứng tên tác giả, quyền thay đổi nội dung tác phẩm.

Những quyền tài sản liên quan đến việc chiếm hữu, sử dụng các sản phẩm trí tuệ có thể chuyển giao cho người khác thông qua các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng tác phẩm (đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học) và chuyển giao công nghệ (đối với đối tượng sở hữu công nghiệp).

Như vậy quyền sở hữu trí tuệ chỉ mang tính chất tương đối vì thuộc tính của các sản phẩm trí tuệ khác biệt so với tính chất của tài sản là vật chất. Các sản phẩm trí tuệ được thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức khách quan như một tác phẩm văn học – nghệ thuật, một sáng chế, một giải pháp hữu ích, một nhãn hiệu hàng hóa… thì trên thực tế chủ sở hữu không thể kiểm soát thông thường như tài sản là vật chất.

Việc phổ biến rộng rãi các sản phẩm trí tuệ không dừng lại ở phạm vi một quốc gia, một khu vực mà nó còn có thể được phổ biến trên phạm vi toàn cầu thông qua quá trình chuyển giao chính thức và không chính thức (chuyển giao tích cực và không tích cực). Bởi vì, những tri thức, phương pháp, giải pháp kỹ thuật khi đã được bộc lộ công khai thì khả năng bị xâm phạm đã không thể ngăn chặn, kiểm soát hết được.

Chính hệ thống thông tin của một quốc gia, của khu vực, của các tổ chức quốc tế đã là những trung gian, môi trường của sự phổ biến trí thức mới vượt ra ngoài phạm vi của một quốc gia, do vậy các sản phẩm trí tuệ không tuyệt đối thuộc về cá nhân hay một quốc gia cá biệt nào.

Thứ ba, sự sáng tạo của con người là không cùng vì tri thức của nhân loại nói chung luôn luôn có tính kế thừa tri thức của các thế hệ trước và phát huy phù hợp với thời đại đang tồn tại của con người trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Hơn nữa, chính sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội đã là một nhu cầu mà công nghệ cần phải được nâng cao. Do vậy, sự phát triển công nghệ và triển khai công nghệ trong sản xuất, kinh doanh mà mỗi quốc gia phải thực hiện cũng là một nhu cầu.

Thứ tư, xã hội ngày càng phát triển thì nhóm khách thể thuộc quyền sở hữu trí tuệ càng nảy sinh phong phú hơn theo sự tiến bộ tất yếu của khoa học và chuyển giao công nghệ. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên quy mô quốc tế bởi các hiệp ước và công ước quốc tế là đòi hỏi cần thiết. Chỉ có sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên quy mô quốc tế mới bảo đảm được quyền áp dụng công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh trong mỗi quốc gia và liên quốc gia như:

– Hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của mỗi nước có nét đặc thù và phù hợp với các hiệp ước và công ước quốc tế mà nước đó là thành viên;

– Bảo đảm việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ của các nhà kinh doanh trong việc ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ để phát huy vai trò quyền sở hữu trí tuệ trong kinh doanh và thương mại quốc tế: –

– Quyền chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo hộ bí mật thương mại, bảo hộ chỉ dẫn địa lý nhằm không những bảo vệ quyền lợi của nhà sản xuất mà còn bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, khuyến khích lao động sáng tạo để tạo ra những sản phẩm trí tuệ ngày càng có giá trị cao;

– Các sản phẩm sở hữu trí tuệ của mỗi quốc gia được triển khai có hiệu quả trên phạm vi toàn cầu là căn cứ để mở rộng quan hệ kinh tế thế giới và sản phẩm trí tuệ được sử dụng vào sự phát triển chung của nhân loại. Sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm văn học – nghệ thuật được hiểu là sở hữu một sản phẩm đặc biệt, quan tâm đến nó không chỉ có người mua mà còn là toàn thể xã hội.  

Trong thời đại ngày nay việc củng cố hoạt động và phát triển sở hữu trí tuệ đã có các xu hướng đổi mới, các ngân hàng thông tin và các hình thức sử dụng tiến bộ khác đối với những thành tựu khoa học – công nghệ và văn học thế giới có giá trị được biết đến trên phạm vi toàn cầu. Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở thành quan hệ và hợp tác quốc tế.

Tiến trình phát triển của quan hệ sở hữu trí tuệ của quốc gia hay quốc tế diễn ra theo những quy luật đặc biệt và càng được nghiên cứu một cách toàn diện hơn. Sở hữu trí tuệ là hình thức sở hữu đặc biệt, khách thể của nó là sản phẩm sáng tạo trí tuệ và nó không ảnh hưởng bởi các chỉ thị hành chính quan liêu nào mà nó chỉ tuân theo quy luật phát triển khách quan của mỗi chế độ xã hội và không ngừng ở phạm vi một quốc gia.

Pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của mỗi quốc gia đã được các công ước và hiệp ước quốc tế về bảo vệ các sản phẩm trí tuệ về mặt pháp lý xuất phát từ sự cần thiết phải chấp hành triệt để các quyền và nghĩa vụ của người sáng tạo và của chủ sở hữu các sản phẩm trí tuệ. Nguyên tắc đó là cơ sở của các hiệp ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của con người.

Việc thiết lập các nguyên tắc bảo đảm đáng tin cậy để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là vấn đề của toàn cầu không những trong lĩnh vực bảo vệ các giá trị phân loại chung mà cả trong lĩnh vực thực hiện tiềm năng của cá nhân sáng tạo và việc bảo vệ tài sản của chủ thể. Các tổ chức quốc tế đã được thành lập nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các nước thành viên, gồm các tổ chức:

+ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO, tổ chức này mà tiền thân của nó là tổ chức BIRPI – một tổ chức liên Chính phủ được chính phủ Thụy Sỹ thành lập vào năm 1893 để quản lý Công ước Paris và Berne. Tổ chức WIPO được thành lập theo thỏa thuận tại Stockholm ngày 14/7/1967, BIRPI trở thành Tổ chức Liên chính phủ, mở đầu cho việc tổ chức này trở thành một bộ phận của Liên hợp quốc. Hoạt động của WIPO gồm 4 loại:

– Hoạt động đăng ký;

– Hoạt động khuyến khích sự hợp tác liên chính phủ trong việc quản lý các quyền sở hữu trí tuệ;

– Các hoạt động mang tính chất chuyên môn qua đó đưa ra những điều kiện giúp cho việc giải quyết các tranh chấp;

– Các hoạt động đăng ký của WIPO được tiến hành theo quy định của các công ước và điều ước quốc tế khác nhau.

Sự hợp tác quốc tế trong quản lý sở hữu trí tuệ được WIPO khuyến khích là các chương trình thông tin và tư liệu Patent, theo đó WIPO cung cấp miễn phí các báo cáo tra cứu cho các cơ quan các nước đang phát triển.

+ Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD).

UNCTAD được thành lập năm 1964 như là một cơ quan của Đại hội đồng Liên hợp quốc và hoạt động trong các lĩnh vực:

– Thay mặt các nước đang phát triển đàm phán các thỏa thuận về hàng hóa quốc tế; dẫn giải các lời khuyến cáo về kỹ thuật và trợ giúp các nhóm khu vực và tiểu khu vực của các nước đang phát triển trong các chương trình hợp tác của các nhóm đó. Thông qua tổ chức GATT đàm phán về giảm thuế quan và đàm phán những nguyên tắc về việc loại bỏ những thực tế hạn chế thương mại trong việc chuyển giao công nghệ. Vai trò của UNCTAD đối với các nước đang phát triển trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ là rất lớn và thông qua UNCTAD, các nước đang phát triển mới có điều kiện tiếp cận các công nghệ thích hợp.

+ Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật năm 1886 quy định các nguyên tắc chung: Không nước nào có nghĩa vụ phải bảo hộ quyền tác giả, tác phẩm của người nước ngoài nếu không tham gia vào Công ước. Nguyên tắc cơ bản về “chính sách đối xử như công dân” (nguyên tắc đối xử quốc gia) đối với các tác phẩm có xuất xứ tại một nước thành viên khác như bảo hộ mà nước đó dành riêng cho công dân nước mình. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả theo Công ước Berne được quy định ở các mức độ và trường hợp khác nhau:  

+ Sau 50 năm khi tác giả chết. Đối với tác phẩm khuyết danh là 50 năm sau khi tác phẩm được công bố hợp pháp;

+ Tác phẩm điện ảnh là 50 năm từ khi tác phẩm được công bố hoặc 50 năm từ khi tác phẩm được tạo ra, nếu tác phẩm không được công bố;

+ Tác phẩm nghệ thuật ứng dụng và tác phẩm nhiếp ảnh thời hạn bảo hộ tối thiểu là 25 năm kể từ khi tạo ra tác phẩm.

Ngoài ra, trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả còn hàng loạt công ước quốc tế quy định như Công ước Rome về bảo hộ các nhà biểu diễn, các nhà sản xuất băng, đĩa âm thanh và các tổ chức phát thanh (1961); Công ước Geneve về bảo hộ các nhà sản xuất bằng âm thanh, đĩa âm thanh chống việc sao chép trái phép các băng, đĩa âm thanh (1971); Công ước Brussels về việc phổ biến các tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh (1974); Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp (1883); Hiệp định các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (GATT; TRIPS) đã trở thành nhân tố quan trọng làm tăng nguồn đầu tư bằng chuyển giao công nghệ vào các nước đang phát triển.

 Những công ước và hiệp ước quốc tế đã lược dẫn ở trên và căn cứ vào chính nội dung của chúng đã minh chứng một điều: Quyền sở hữu trí tuệ không dừng lại trong phạm vi một quốc gia mà nó còn được quan tâm trên phạm vi toàn thế giới. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và hệ quả của nó là việc áp dụng công nghệ trong sản xuất kinh doanh là nhu cầu không thể thiếu của mỗi cá nhân, mỗi tập đoàn sản xuất.

Trước hết, nó bảo đảm sự công bằng cho mỗi cá nhân hoặc một doanh nghiệp, một công ty trong quan hệ xã hội đã đầu tư thời gian, tài sản và nguồn lực vào việc tạo ra các sản phẩm trí tuệ dưới dạng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học hoặc có thiện chí vào việc phát triển uy tín của mình trong việc sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ thì các cá nhân khác, công ty hay doanh nghiệp khác không được quyền khai thác những lợi ích tài chính từ việc đầu tư của một chủ thể;

 Thứ hai, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ thể đã thực sự khuyến khích sự sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ mới đồng thời khai thác triệt để nội dung khoa học của các sản phẩm trí tuệ đã được bảo hộ. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã khuyến khích cho việc đầu tư, khuyến khích sáng tạo văn học – nghệ thuật, khoa học và việc đầu tư có hiệu quả khi triển khai, áp dụng các sản phẩm trí tuệ.

Ngoài lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ được bảo hộ là toàn xã hội được hưởng lợi ích do có sự áp dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất kinh doanh tạo ra những sản phẩm mới có hàm lượng trí tuệ cao, thuận tiện trong sử dụng. Luật pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nhu cầu và cũng là nhiệm vụ vừa có tính chất xã hội vừa có tính khách quan tất yếu;

Thứ ba, các sản phẩm trí tuệ được thể hiện dưới dạng sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, một tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thuộc quyền sở hữu của người đã trực tiếp sáng tạo ra chúng. Các quyền nhân thân và quyền tài sản của người sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ được hiểu là quyền đương nhiên.

Quyền của chủ sở hữu các sản phẩm trí tuệ luôn được bảo hộ bằng pháp luật và người khác không được phép khai thác các sản phẩm đó nếu không có sự đồng ý của chủ sở hữu các sản phẩm trí tuệ. Trong một nhà nước có tư hữu, có pháp luật thì vấn đề sở hữu tài sản luôn luôn được điều chỉnh bằng pháp luật mang bản chất giai cấp. Những tranh chấp về đất đai, tài sản khác như các công trình xây dựng, nhà cửa, vật nuôi, cây trồng, các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng khác luôn luôn phát sinh trong xã hội.

Xác định giữa người giàu và người nghèo luôn luôn được dựa trên tiêu chí sở hữu tài sản là vật chất. Những tranh chấp về tài sản giữa các nhân với cá nhân, giữa tổ chức cá nhân và giữa tổ chức với tổ chức luôn diễn ra trong xã hội và toà án đã giải quyết những tranh chấp về tài sản, về hợp đồng có đối tượng là tài sản với số lượng ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước.

Nhưng khi nền sản xuất công nghiệp phát triển cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thì một loại tài sản khác được tạo ra và được chú trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội là quyền sở hữu các sản phẩm sáng tạo dưới dạng các giải pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất tạo ra những vật chất, hàng hóa có hàm lượng trí tuệ cao tạo ra hàng hóa đa dạng về chủng loại và tinh tế, đẹp, tiện ích cho việc sử dụng theo đó đời sống tinh thần và vật chất của con người trong xã hội được nâng cao về chất lượng sống.

Các sản phẩm trí tuệ được tạo ra dưới dạng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn và những giải pháp hữu ích khác đã được áp dụng vào sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ đã nâng tầm vóc của con người không ngừng được nâng cao về nhận thức thế giới khách quan và có ý thức chủ động trong cải cách tổ chức sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra nhiều hàng hóa, tài sản có hàm lượng trí tuệ ngày một cao để cải thiện vượt bậc chất lượng sống của con người.

Với nhận thức về tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ, các quốc gia trên thế giới đã có Luật Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và Việt Nam cũng luôn luôn quan tâm và có Luật Sở hữu trí tuệ bảo hộ các sản phẩm sáng tạo trí tuệ. Sở hữu trí tuệ được coi trọng, bảo hộ nhằm thúc đẩy các hoạt động sáng tạo của các chủ thể trong xã hội với mục đích đổi mới công nghệ và khuyến khích sản xuất phát triển, đồng thời khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ giữa các chủ thể thuộc các thành hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội được bình đẳng phát triển.

Khuyến khích, các chủ thể xã hội tạo ra các sản phẩm mới và những phương pháp sản xuất mới, các thiết bị kỹ thuật mới và tạo ra các giải pháp kỹ thuật tân tiến nhằm nâng cao năng suất lao động, giải phóng lao động cơ bắp cho con người. Tạo ra hàng hóa sản phẩm với chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp và những nhãn hiệu danh tiếng trong xã hội có uy tín, có niềm tin vào chất lượng sản phẩm của nhà sản xuất.

Các sản phẩm trí tuệ được bảo hộ là sự công khai hoá sản phẩm trong xã hội, để chủ thể sản xuất, kinh doanh có căn cứ pháp lý áp dụng các giải pháp kỹ thuật có tính mới, tính sáng tạo để tạo ra của cải vật chất trong xã hội ngày một đa dạng, phong phủ và có hàm lượng trí tuệ ngày một cao hơn. Với những cơ sở pháp lý và theo đó quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ bằng pháp luật, đã khuyến khích các hoạt động đầu tư, khuyến khích sử dụng công nghệ mới và chuyển giao công nghệ mới.

Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam được quy định và ngày càng được bổ sung hoàn thiện phù hợp với nền sản xuất theo cơ chế thị trường, bình đẳng giữa các chủ thể thuộc các hình thức sở hữu và chế độ sở hữu khác nhau nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất xã hội và nâng cao mức sống, chất lượng sống của cá nhân, gia đình trong xã hội. Hơn nữa, ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo là các chủ trương khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển bình đẳng với thành phần kinh tế Nhà nước.

Khuyến khích đầu tư phát triển, do vậy vai trò của Luật Sở hữu trí tuệ rất quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, hàm lượng trí tuệ lớn, bảo đảm chất lượng hàng hóa có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế. Sở hữu trí tuệ là một khái niệm được hình thành muộn hơn nhiều so với khái niệm quyền sở hữu tài sản trên thế giới.

Vào năm 1974, lần đầu tiên có khái niệm về bằng độc quyền sáng chế tại Venice. Bằng độc quyền sáng chế ghi nhận sự sáng tạo của cá nhân là người tạo ra giải pháp kỹ thuật. Về bằng độc quyền sáng chế, vào thế kỷ thứ XVII tại nước Anh đã ban hành Đạo luật về Đặc quyền vào năm 1642, là văn bản pháp luật đầu tiên quy định điều kiện cấp bằng độc quyền cho giải pháp kỹ thuật đạt tiêu chuẩn là sáng chế.

Việc bảo hộ bằng độc quyền sáng chế trong một thời hạn nhất định.  Cũng tại nước Anh, vào năm 1710 một đạo luật có tên là Anne đã được Quốc hội nước này thông qua, quyền tác giả được thừa nhận theo đạo luật này. Quy định quyền của tác giả khi còn sống và quyền của người thừa kế của tác giả được độc quyền tái bản sách đã in trong thời hạn 14 năm kể từ khi sách được xuất bản lần đầu tiên. Kế theo nước Anh là nước Pháp có quy định bằng độc quyền sáng chế, quy định quyền của người sáng chế được bảo hộ từ năm 1791.  

Bằng độc quyền sáng chế được cấp ở các nước có nền sản xuất công nghiệp phát triển, nhằm tạo điều kiện cho những cá nhân có khả năng bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra các sản phẩm trí tuệ là giải pháp kỹ thuật và giải pháp này được áp dụng vào sản xuất tạo ra hàng hóa, sản phẩm vật chất nhanh hơn, đẹp hơn.

Tại Hoa Kỳ, vào năm 1788, Hiến pháp Hoa Kỳ đã quy định bằng độc quyền sáng chế, điều kiện cấp Bằng bảo hộ cho người tạo ra sản phẩm trí tuệ là sáng chế. Nước có nền công nghiệp phát triển như nước Đức, vào năm 1877 luật quy định về bằng độc quyền sáng chế được ban hành. Đạo luật này nhằm khuyến khích cá nhân có năng lực sáng tạo, có động lực sáng tạo ra những sản phẩm trí tuệ nhằm cải tiến và thay đổi công nghệ trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp của giai đoạn trước đó.

Việc cấp bằng độc quyền sáng chế được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, đặc biệt vào thế kỷ XIX, một loạt các nước ban hành luật để bảo hộ bằng độc quyền sáng chế cho các sản phẩm trí tuệ có tính mới, tính sáng tạo và áp dụng được vào sản xuất tạo ra hàng hóa mới.

Những giải pháp kỹ thuật được cấp văn bằng độc quyền sáng chế thường dễ bị chiếm đoạt, bởi vì các sản phẩm trí tuệ được công nhận và được cấp bằng độc quyền sáng chế nhưng dễ bị chiếm dụng. Nếu chỉ bảo hộ trong phạm vi một quốc gia, thì nguy Cơ sáng chế bị đánh cắp là không nhỏ, cho nên việc bảo hộ sáng chế cần được mở rộng trên phạm vi quốc tế. Do có nhiều nguy cơ sáng chế bị lấy cắp về nội dung giải pháp được tạo ra bởi con người, cho nên quyền của người sáng tạo ra các giải pháp đó cần được bảo hộ không những trong một quốc gia, mà còn cần được bảo hộ trên phạm vi toàn thế giới.

Vì vậy, Công ước Paris về việc bảo hộ công nghiệp được ban hành vào năm 1883, Công ước này đã là công cụ bảo hộ cho cá nhân tạo ra sáng chế ở một quốc gia còn được bảo hộ tại những quốc gia khác. Cùng với việc mở rộng không gian bảo hộ sáng chế trên phạm vi thế giới là việc các quốc gia công nhận lẫn nhau đối với các giải pháp kỹ thuật là sáng chế, Công ước Berne năm 1886 được thông qua nhằm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật.

 Mục đính của các Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật đều có các nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo trong việc bảo hộ các sản phẩm sáng tạo trí tuệ ngang nhau cho công dân nước ngoài trong một quốc gia nhất định.

->>>> Tham khảo thêm: Đăng ký sở hữu trí tuệ

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Nhãn hiệu không được sử dụng 3 năm liên tiếp có bị chấm dứt hiệu lực không?

Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu, trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy nhãn hiệu không được sử dụng 3 năm liên tiếp sẽ không bị chấm dứt hiệu lực theo Điều 95 Luật Sở hữu trí...

Xâm phạm bí mật kinh doanh bị phạt như thế nào?

Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh sẽ bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng. Ngoài ra còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sụng là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính về cạnh tranh; tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi...

Quyền nhân thân của tác giả có được chuyển giao hay không?

Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định...

Sinh viên photo sách giáo trình để học có vi phạm bản quyền tác giả không?

Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 thì: Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở...

Tên thương mại có chuyển nhượng được không?

Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi