Các trường hợp đình công bất hợp pháp theo Bộ luật lao động
Điều 204 và Điều 209 BLLĐ đều không đưa ra các tiêu chí để xác định được những tình huống mà đình công có thể bị cấm, hoặc tiêu chí để xác định việc đình công như thế nào được coi là có mối đe dọa rõ ràng và sắp xảy đến đối với tính mạng, an toàn và sức khỏe cá nhân của toàn bộ hoặc một phần dân cư.
Trường hợp đình công bất hợp pháp là trường hợp nào?
Điều 204 Bộ luật lao động quy định về các trường hợp đình công bất hợp pháp, cụ thể đó là:
1. Không thuộc trường hợp được định công quy định tại Điều 199 của Bộ luật này.
2. Không do tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công.
3. Vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành đình công theo quy định của Bộ luật này.
4. Khi tranh chấp lao động tập thể đang được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Bộ luật này.
5. Tiến hành đình công trong trường hợp không được định công quy định tại Điều 209 của Bộ luật này.
6. Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Điều 210 của Bộ luật này.
Tư vấn xác định trường hợp đình công bất hợp pháp theo Bộ luật lao động
Quy định về các trường hợp đình công bất hợp pháp được thể hiện chính thức trong Điều 176 BLLĐ năm 1994. Qua các lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2006, 2012 và đến năm 2019 nội dung này về cơ bản không có nhiều thay đổi lớn, theo đó các trường hợp được coi là bất hợp pháp khi:
– Cuộc đình công không xuất phát từ các tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và không thuộc trường hợp được định công quy định tại Điều 199 BLLĐ. Quy định này “hẹp” hơn so với quy định tương tự được thể hiện ở Điều 176 BLLĐ năm 1994, khi luật này quy định các trường hợp đình công bất hợp pháp khi “không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể; vượt ra ngoài phạm vi quan hệ lao động.
– Cuộc đình công không do tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công. Quy định này rất quan trọng trong bối cảnh một doanh nghiệp có thể có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, theo đó chỉ tổ chức có quyền thương lượng tập thể theo quy định của BLLĐ mới có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công. Tuy nhiên trong trường hợp mà ở đó các tổ chức đại diện người lao động phải kết hợp để có quyền thương lượng tập thể thì quy định này chưa đủ rõ để hiểu rằng đây là quyền chung của các tổ chức đại diện người lao động đã kết hợp với nhau.
– Cuộc đình công vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành đình công theo quy định của Bộ luật. Quy định này mới được bổ sung so với BLLĐ năm 2012, nhằm bảo đảm và thúc đẩy cho cuộc đình công tuân thủ các trình tự, thủ tục theo luật định cũng như bảo đảm rằng việc đình công phản ánh được ý chí, nguyện vọng của tập thể người lao động, cũng như vai trò đại diện của tổ chức đại diện người lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức với thành viên của họ.
– Cuộc đình công xảy ra khi tranh chấp lao động tập thể đang được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định. Điều này thể hiện quan điểm rằng phải coi đình công là thủ tục cuối cùng trong việc giải quyết tranh chấp lao động, khi các thủ tục trước đó đã được các bên sử dụng mà không thể tiến tới việc đạt được một thỏa thuận.
– Cuộc đình công được tiến hành tại nơi sử dụng lao động không được định công được quy định tại Điều 209 của Bộ luật. Vì theo quy định của BLLĐ, những nơi này đình công có thể đe dọa đến quốc phòng, an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe của con người nên không được xảy ra đình công.
– Cuộc đình công vẫn tiến hành khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công của cơ quan có thẩm quyền. Nội dung này với quy định tại Điều 209 chưa hẳn đã tương thích với nguyên tắc tự do liên kết, vì theo nguyên tắc này chỉ có thể cấm đình công ở những ngành dịch vụ thiết yếu là những ngành dịch vụ mà nếu bị gián đoạn sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng, an toàn và sức khỏe cá nhân của toàn bộ hoặc một phần dân cư.
Hơn nữa, cả Điều 204 và Điều 209 BLLĐ đều không đưa ra các tiêu chí để xác định được những tình huống mà đình công có thể bị cấm, hoặc tiêu chí để xác định việc đình công như thế nào được coi là có mối đe dọa rõ ràng và sắp xảy đến đối với tính mạng, an toàn và sức khỏe cá nhân của toàn bộ hoặc một phần dân cư.
BÀI VIẾT MỚI NHẤT
Nội dung của thông báo nội bộ công ty phải ghi rõ ràng thời gian áp dụng thông báo, đối tượng tiếp nhận và nội dung chi tiết của thông báo để mọi người nắm được nội dung thực hiện và triển...
Điều kiện nâng lương trước thời hạn 6 tháng?
Nâng lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khi đáp ứng đủ các điều kiện được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 3 Thông tư 08/2013/TT-BNV được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 03/2021/NĐ-CP....
Bị tai nạn trên đường đi làm có được coi là tai nạn lao động không?
Ngày 22/08/2023, trên đường đi làm về, anh Mùi nhân viên bảo vệ của công ty bị tai nạn giao thông. Trường hợp này, anh Mùi có được coi là bị tai nạn lao động không? Quyền lợi của anh Mùi như thế...
Chính sách của nhà nước về bình đẳng giới trong lao động
Ngoài chức năng lao động, lao động nữ còn thực hiện “thiên chức” sinh đẻ và nuôi con; các nghiên cứu về sức khỏe đã chỉ ra rằng, người phụ nữ thường yếu hơn nam giới và rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố độc hại, nguy hiểm. Do có những đặc điểm này, lao động nữ thường khó khăn hơn so với lao động nam về tìm kiếm việc làm, ổn định việc làm lâu dài và bảo đảm thu...
Trả lương thông qua người cai thầu như thế nào?
Nơi nào sử dụng người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian tương tự thì người sử dụng lao động là chủ chính phải có danh sách và địa chỉ của những người này kèm theo danh sách những người lao động làm việc với họ và phải bảo đảm việc họ tuân thủ quy định của pháp luật về trả lương, an toàn, vệ sinh lao động....
Xem thêm


























