• Thứ ba, 14/05/2024 |
  • Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương |
  • 759 Lượt xem

Trường hợp người lao động có quyền đình công?

Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc thành lập nhưng không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động.

Trường hợp nào người lao động có quyền đình công?

Điều 199 quy định về Trường hợp người lao động có quyền đình công như sau:

Tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp lao động tập thể về lợi ích có quyền tiến hành thủ tục quy định tại các điều 200, 201 và 202 của Bộ luật này để đình công trong trường hợp sau đây:

1. Hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải quy định tại khoản 2 Điều 188 của Bộ luật này mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải,

2. Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc thành lập nhưng không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động. 

Bình luận về Trường hợp người lao động có quyền đình công 

Nhằm cụ thể hóa quyền của các bên trong quan hệ lao động, Bộ luật bổ sung quy định về các trường hợp người lao động có quyền đình công nhằm bảo đảm tính minh bạch, cũng như thúc đẩy việc tuân thủ pháp luật lao động khi phát sinh tranh chấp lao động trong thực tiễn. 

Thứ nhất: Bộ luật xác định tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp lao động tập thể về lợi ích có quyền tiến hành các thủ tục để đình công. Trong bối cảnh một doanh nghiệp có thể có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở và các tổ chức này phải kết hợp với nhau để có quyền yêu cầu thương lượng tập thể, thì quy định này cần được hiểu là các tổ chức đã thực hiện việc kết hợp trên đều có quyền tiến hành các thủ tục để đình công khi phát sinh tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. 

Thứ hai: Bộ luật cũng quy định rõ hai trường hợp phát sinh quyền đình công của tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.

Cụ thể: (i) Hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải; (ii) Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc thành lập nhưng không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động. Và quy định này đang không bao gồm trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 196 và khoản 4 Điều 197 BLLĐ. 

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Doanh nghiệp cho thuê lại lao động theo Bộ luật lao động mới nhất

Doanh nghiệp cho thuê lại lao động phải ký quỹ và được cấp Giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động....

Mẫu thư thông báo trúng tuyển phỏng vấn

Thư thông báo trúng tuyển phỏng vấn là một bức thư thông báo rằng ứng viên đã trúng tuyển vào vị trí mà công ty đang tuyển dụng hay vị trí mà ứng viên đã đi phỏng...

Quy định dự phòng trợ cấp thôi việc

Thông tư số 180/2012/TT-BTC ngày 24 tháng 10 năm 2012 hướng dẫn xử lý tài chính về chi trợ cấp mất việc làm cho người lao động tại doanh nghiệp chỉ quy định về Xử lý tài chính về chi trợ cấp mất việc làm và số dư Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm tại doanh nghiệp mà không quy định về quỹ dự phòng trợ cấp thôi...

Bị tai nạn trên đường đi làm có được coi là tai nạn lao động không?

Ngày 22/08/2023, trên đường đi làm về, anh Mùi nhân viên bảo vệ của công ty bị tai nạn giao thông. Trường hợp này, anh Mùi có được coi là bị tai nạn lao động không? Quyền lợi của anh Mùi như thế...

Bao nhiêu tuổi được xem là người lao động?

Người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Khi sử dụng người lao động người sử dụng lao động cần lưu ý đến độ tuổi của người lao động để tránh trường hợp sử dụng lao động sai quy...

Xem thêm