Tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định 
Trong thời hạn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, người chấp hành án có nghĩa vụ: Báo cáo về chức vụ, nghề hoặc công việc bị cấm đảm nhiệm cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc…
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi nào?
Tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội.
Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
Điều luật quy định cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình phạt chính với nội dung là không cho phép họ đảm nhiệm chức vụ, làm nghề hoặc công việc nhất định sau khi chấp hành xong hình phạt chính nhằm mục đích củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính cũng như để ngăn ngừa họ lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc đó để tiếp tục phạm tội.
Cũng như các hình phạt bổ sung khác, hình phạt này được áp dụng “làm cho việc xử lý hình sự được toàn diện, triệt để, phát huy tác dụng phòng ngừa riêng và răn đe chung của hình phạt”. Thông qua việc cấm người bị kết án đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định, hình phạt bổ sung này thực hiện chức năng phòng ngừa tội phạm vì nếu để cho người bị kết án tiếp tục đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc công việc đã bị lợi dụng thì có thể họ lại tiếp tục phạm tội, gây tác hại cho xã hội.
Bằng việc tác động trực tiếp đến người bị kết án, hình phạt còn có tác dụng gián tiếp răn đe những người không vững vàng trong xã hội, góp phần giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành pháp luật, hỗ trợ cho công tác phòng và chống tội phạm. Đồng thời, việc áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định còn có tác dụng củng cố kết quả đạt được do việc áp dụng hình phạt chính đối với người bị kết án.
Bình luận tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
Theo điều luật, Tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hình phạt này bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất: Cấm người bị kết án đảm nhiệm chức vụ nhất định
Mặc dù điều luật không chỉ rõ những chức vụ cụ thể nào bị cấm, nhưng có thể suy ra chức vụ bị cấm là chức vụ hoặc tương tự chức vụ mà người bị kết án đã đảm nhiệm khi phạm tội. Việc cấm người bị kết án đảm nhiệm chức vụ đó là nhằm loại bỏ khả năng người này tiếp tục lợi dụng chức vụ hoặc tiếp tục không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của người có chức vụ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Thứ hai: Cấm người bị kết án không được hành nghề nhất định
Nghề nghiệp là công việc hàng ngày được đào tạo hoặc tự đào tạo, mang tính ổn định cao nhằm thu về lợi ích vật chất nhất định như: thợ mộc, thợ tiện, nghề khắc dấu, bác sĩ, giáo viên, luật sư, lập trình viên, v… Việc hiểu các nghề có thể bị cấm cũng tương tự như cách hiểu các chức vụ có thể bị cấm.
Ví dụ: Cấm hành nghề lái xe đối với những người lái xe chuyên nghiệp không tuân thủ quy tắc nghề nghiệp, vi phạm an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ ba: Cấm người bị kết án làm những công việc nhất định
Công việc được nói trong điều luật này được hiểu là những việc làm có tính chất gần giống nghề nghiệp nhưng có tính thời vụ, không ổn định. Việc phân biệt rạch ròi giữa nghề và công việc nhất định là rất khó khăn, nhất là trong nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay có những việc đối với người này là một nghề nhưng đối với người khác lại là công việc. Việc hiểu các công việc có thể bị cấm cũng tương tự như cách hiểu các chức vụ, nghề có thể bị cấm…
Trong thời hạn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, người chấp hành án có nghĩa vụ: Báo cáo về chức vụ, nghề hoặc công việc bị cấm đảm nhiệm cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú; không được tiếp tục hoặc phải từ chối đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định đã bị cấm; không được ứng cử vào chức vụ đã bị cấm; có mặt khi cơ quan có thẩm quyền triệu tập liên quan đến việc chấp hành án của mình.
Tuy nhiên, họ vẫn được ứng cử, bổ nhiệm, đề bạt vào chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc không bị cấm. Hình phạt bổ sung này được áp dụng khi điều luật về tội bị kết án có quy định hình phạt này và chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn (bao gồm cả trường hợp được hưởng án treo).
Thực tiễn xét xử cho thấy, hình phạt bổ sung này thường được áp dụng kèm theo hình phạt tù có thời hạn hoặc trường hợp bị cáo bị kết án tù nhưng được hưởng án treo. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định là hình phạt có tính nghiêm khắc hơn so với cảnh cáo, phạt tiền.
Vì vậy, quy định hình phạt này bổ sung và hỗ trợ cho hình phạt cảnh cáo cũng như hình phạt tiền là không tương xứng. Theo đó, Điều 41 BLHS nên quy định rõ hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng kèm theo hình phạt chính nào thì sẽ hợp lý hơn.
Về thời hạn, điều luật quy định hình phạt này có thời hạn từ 01 năm đến 05 năm, tính từ ngày chấp hành xong hình phạt tù có thời hạn hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đối với trường hợp hình phạt được áp dụng là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù trong trường hợp cho hưởng án treo.
Quy định này gián tiếp thể hiện hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt tù có thời hạn (bao gồm cả trường hợp cho hưởng án treo), hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt phạt tiền hoặc hình phạt cảnh cáo.
BÀI VIẾT MỚI NHẤT
Quy định định giá tài sản trong tố tụng hình sự
Để việc định giá tài sản được thực thi dễ dàng và phù hợp với thức tiễn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 03 năm 2018 quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của hội đồng định giá tài...
Tái phạm trộm cắp tài sản bị xử lý ra sao?
Chồng tôi đã từng bị kết án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Sau 1 tháng do hoàn cảnh khó khăn nên lại trộm cắp. Xin hỏi chồng tôi sẽ chịu mức phạt ra...
Quy định triệu tập bị can theo Bộ luật tố tụng hình sự
Giấy triệu tập bị can được sử dụng để yêu cầu bị can đang tại ngoại đến Cơ quan điều tra để hỏi cung hoặc tham gia vào hoạt động điều tra...
Gây thương tích dưới 11% có bị khởi tố hình sự không?
Tội cố ý gây thương tích sẽ bị khởi tố hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành của tội phạm, nếu tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% thì ngoài biện pháp xử phạt hành chính thì trong một số trường hợp nhất định, tội cố ý gây thương tích vẫn được cấu...
Bị lừa mất tiền đặt cọc mua đất có được khởi kiện tại tòa án không?
Tháng 11/2015, tôi có mua một mảnh. Tôi đã đặt cọc tiền mua đất, có viết giấy biên nhận. Sau đó, theo tìm hiểu tôi phát hiện ra người bán đất cho tôi không phải chủ nhân thật sự của mảnh đất. Tôi đến tận nhà người đó đòi lại số tiền đặt cọc nhưng anh ta không cho lấy lại. Tôi có thể kiện người bán về tội lừa đảo và lấy lại tiền được...
Xem thêm


























