Tịch thu tài sản là gì?
Khi quyết định hình phạt tịch thu tài sản, Tòa án cần phải căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và căn cứ vào tình hình tài sản của người bị kết án, những khoản thu lợi bất hợp pháp có liên quan đến tội phạm mà người đó thực hiện để quyết định tước một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Khái niệm Tịch thu tài sản
Tịch thu tài sản là trước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma tuý, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
Bình luận về tịch thu tài sản theo quy định mới nhất
Nhằm giúp Khách hàng hiểu rõ hơn Tịch thu tài sản là gì? Trong nội dung bài viết chúng tôi sẽ phân tích và bình luận Điều luật. Tại Điều 45 Bộ luật hình sự quy định nội dung cũng như phạm vi áp dụng hình phạt tịch thu tài sản.
Theo Từ điển tiếng Việt, tịch thu tài sản được hiểu là tước quyền sở hữu tài sản của người khác.(125) Với tính chất là một hình phạt bổ sung, tịch thu tài sản được hiểu là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong BLHS do Tòa án tuyên bố trong bản án kết tội đối với người bị kết án về một trong những tội được BLHS quy định với nội dung là tước của họ một phần hoặc toàn bộ tài sản để nộp vào ngân sách nhà nước.
So sánh với các hình phạt chính không tước quyền tự do và với một số hình phạt bổ sung khác thì tịch thu tài sản có tính chất nghiêm khắc hơn nhiều. Tính nghiêm khắc đó của hình phạt tịch thu tài sản được thể hiện ở nội dung cơ bản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu riêng của người bị kết án nộp vào ngân sách nhà nước. Bằng việc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản của người bị kết án, hình phạt này nhằm mục đích thu hồi triệt để các tài sản của người bị kết án do thu lợi bất chính mà có, đồng thời triệt tiêu điều kiện kinh tế của họ nhằm ngăn ngừa họ có thể sử dụng các tài sản đó để tiếp tục phạm tội, gây nguy hại cho xã hội, thông qua đó giáo dục người bị kết án ý thức tôn trọng pháp luật, không phạm tội mới và răn đe những người không vững vàng trong xã hội để thực hiện phòng ngừa chung. Như vậy, chức năng chủ yếu của loại hình phạt này là phòng ngừa tội phạm.
Theo điều luật, tịch thu tài sản được áp dụng với các nhóm tội phạm sau:
– Các tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Chương XIII BLHS;
– Các tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XX BLHS;
– Các tội phạm tham nhũng được quy định tại Mục 1 Chương XXIII BLHS; và
– Một số tội phạm khác được BLHS quy định.
Với quy định phạm vi áp dụng trên, BLHS nhấn mạnh đối tượng chủ yếu của hình phạt tịch thu tài sản là 03 nhóm tội đã được kể tên.
Trong phạm vi như vậy, điều luật xác định điều kiện cho phép áp dụng hình phạt tịch thu tài sản là tội phạm bị kết án phải thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong BLHS năm 2015, nhà làm luật thường quy định hình phạt này cùng với những hình phạt bổ sung khác, phổ biến là với hình phạt tiền. Ở các tội phạm không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia mà có quy định hình phạt tịch thu tài sản, hình phạt này đều được quy định cùng với hình phạt tiền để Tòa án lựa chọn khi cá thể hóa hình phạt trong những trường hợp phạm tội cụ thể. Về lý thuyết, khi tuyên tịch thu tài sản đối với người bị kết án thì không có nghĩa là Tòa án không được phép áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với họ nữa. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, các Tòa án thường chỉ lựa chọn một trong hai loại hình phạt này để áp dụng đối với người phạm tội. Chỉ khi áp dụng hình phạt tiền mà mức tiền phạt theo quy định của BLHS chưa có tác dụng tước đoạt những khoản thu nhập bất hợp pháp của người bị kết án thì Tòa án áp dụng hình phạt tịch thu tài sản, nếu điều luật quy định cả hai loại hình phạt này.
Khi quyết định hình phạt tịch thu tài sản, Tòa án cần phải căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và căn cứ vào tình hình tài sản của người bị kết án, những khoản thu lợi bất hợp pháp có liên quan đến tội phạm mà người đó thực hiện để quyết định tước một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tài sản ở đây không phải là những vật, tiền bạc trực tiếp liên quan đến tội phạm vì đó là những tang vật của vụ án nên mặc nhiên bị tịch thu và bị xử lý theo những quy định của BLTTHS mà được hiểu là tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án, bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản (Điều 105 Bộ luật dân sự).
Cụ thể, tài sản là đối tượng bị tịch thu bao gồm những tài sản mà người đó đang sử dụng, quyền sử dụng đất, nhà ở, trụ sở của họ, tài sản cho vay, cho mượn, cho thuê, gửi sửa chữa, tài sản đang cầm cố, thế chấp, tiền trong tài khoản ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nhà nước, tiền được bồi thường thiệt hại về tài sản, trái phiếu, tín phiếu, các khoản tiền, giấy tờ có giá của người bị kết án đang do người thứ ba giữ, tài sản thực chất là của người bị kết án nhưng lại đứng tên người khác để thực hiện ý định tẩu tán, v…
Đối với các tài sản mà người bị kết án sở hữu với tư cách là người sở hữu chung theo phần, sở hữu chung hợp nhất như tài sản chung của vợ chồng của người bị kết án, tài sản mà người bị kết án góp vốn chung với người khác thì chỉ được tuyên tịch thu phần tài sản của người bị kết án, đồng thời phải xác định rõ phần tài sản thuộc sở hữu của người đó trong các khối tài sản chung là bao nhiêu, bao gồm những tài sản gì và chỉ được tịch thu những tài sản đó.
Trong trường hợp các khối tài sản mà người bị kết án đứng tên sở hữu chung không thể phân chia được thì Tòa án và cơ quan thi hành án định giá tài sản chung đó và chỉ tịch thu phần giá trị tài sản mà người bị kết án được hưởng trong khối tài sản chung. Khi tuyên bố tịch thu một phần tài sản, Tòa án cần phải tuyên rõ tên tài sản bị tịch thu, nếu tài sản quá nhiều thì phải có danh mục các loại tài sản kèm theo bản án và công bố công khai tại phiên tòa. Để đảm bảo cho việc thi hành án có thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản theo trình tự, thủ tục quy định trong Luật thi hành án dân sự.
Điều luật quy định một nội dung quan trọng thể hiện tính nhân đạo là: “Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống”.
Về vấn đề này, trước đây, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: “Khi quyết định tịch thu tài sản không nên đụng tới những tư liệu sản xuất cần thiết cho lao động chính đáng và những tư liệu sinh hoạt cần thiết tối thiểu về đời sống của gia đình bị cáo, tránh gây những khó khăn cho họ”.
Đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn chính thức nào quy định về danh mục các tài sản thiết yếu mà người bị kết án có thể giữ lại để đảm bảo nhu cầu sinh sống tối thiểu của họ và gia đình. Nhưng theo thực tiễn xét xử thì những tài sản “để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống thường là: Lương thực, thực phẩm, thuốc men cần thiết cho người bị kết án và gia đình, công cụ lao động thông thường cần thiết cho nghề nghiệp hoặc công việc nhất định của người bị kết án và gia đình họ sinh sống, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người bị kết án và gia đình như quần áo, chăn màn, giường chiếu và những đồ dùng sinh hoạt thông thường khác, các đồ dùng để thờ cúng thông thường. Khi để lại một trong số các tài sản trên cho người bị kết án và gia đình họ sinh sống, Tòa án cần tuyên cụ thể đó là tài sản gì, giá trị bao nhiêu, tránh các trường hợp sai lầm khi thi hành án.
Tịch thu tài sản cũng như phạt tiền đều là những hình phạt bổ sung quan trọng, có khả năng được áp dụng rộng rãi, tác động mạnh mẽ về mặt kinh tế đối với người bị kết án. “Trong hệ thống các hình phạt bổ sung, phạt tiền với tịch thu tài sản làm phong phú các biện pháp hình sự có thể được áp dụng để hoàn thành chức năng xã hội của hình phạt, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả những khả năng vốn có của các biện pháp này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Tuy nhiên, giữa tịch thu tài sản và phạt tiền cũng có những điểm khác nhau cơ bản sau:
Thứ nhất: Về tính chất, tịch thu tài sản trong mọi trường hợp chỉ có thể là hình phạt bổ sung, còn hình phạt tiền là loại hình phạt lưỡng tính, vừa là hình phạt chính và vừa là hình phạt bổ sung. Điều đó có nghĩa là trong mọi trường hợp tịch thu tài sản phải được áp dụng kèm theo một loại hình phạt chính khác theo quy định của BLHS.
Thứ hai: Về phạm vi áp dụng, hình phạt tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với những người bị kết án về tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Không có trường hợp nào hình phạt này lại được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng. Trong khi đó phạm vi áp dụng hình phạt tiền bổ sung rộng hơn rất nhiều. Nó có thể được áp dụng cho tất cả các loại tội phạm, bao gồm cả các tội phạm ít nghiêm trọng.
Thứ ba: Về nội dung pháp lý, nội dung cơ bản của hình phạt tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án còn nội dung của hình phạt tiền là tước một khoản tiền nhất định của người bị kết án nộp vào ngân sách nhà nước. Như vậy, đối tượng mà Nhà nước tước bỏ của người phạm tội khi áp dụng hình phạt tiền là một khoản tiền nhất định, còn đối tượng mà Nhà nước tước bỏ của người bị kết án tịch thu tài sản là tài sản của người đó.
Khi tiến hành tịch thu tài sản, Nhà nước chỉ nhằm vào tài sản của chính người bị kết án mà không có sự quy đổi tài sản đó thành tiền, nhưng cũng cần lưu ý, đối tượng bị tịch thu có thể tồn tại dưới dạng là hiện vật hoặc là tiền, kể cả tiền trong tài khoản ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc kho bạc nhà nước, tiền được bồi thường thiệt hại về tài sản, trái phiếu, tín phiếu, các khoản tiền, giấy tờ có giá, vv.. Trong trường hợp người bị kết án không tự nguyện nộp tiền phạt, họ cũng không có thu nhập để khấu trừ thì cơ quan thi hành án phải tiến hành kê biên tài sản của họ hoặc trừ vào tài sản của họ đang do người khác giữ. Trong những trường hợp này tài sản của người bị kết án đều bị chuyển hóa thành tiền thông qua bán đấu giá.
Thứ tư: Về mức độ, hình phạt tịch thu tài sản chỉ được quy định theo hai mức là một phần hoặc toàn bộ tài sản của người bị kết án. Trong đó, điều luật không quy định mức tối thiểu. Đối với hình phạt tiền dù là hình phạt chính hoặc là hình phạt bổ sung, mức phạt tiền thấp nhất mà Điều 35 BLHS quy định là một triệu đồng.
Do vậy, trong mọi trường hợp Tòa án cũng không được phép tuyên phạt người bị kết án dưới mức này. Trong trường hợp điều luật về tội phạm quy định rõ mức tối thiểu và tối đa của hình phạt tiền, Tòa án phải tuân thủ khung hình phạt này khi áp dụng hình phạt tiền.
BÀI VIẾT MỚI NHẤT
Ví dụ miễn trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Nó được áp dụng đối với những người phạm tội trong những điều kiện nhất định mà cơ quan tiến hành tố tụng nhận thấy không nhất thiết phải tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của...
Tội làm nhục đồng đội theo quy định mới nhất 2025
Làm nhục đồng đội, được hiểu là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của đồng...
Hình sự là gì? Vụ việc hình sự là gì?
Luật hình sự được hiểu là tập hợp có hệ thống các quy phạm pháp luật xác định rõ những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt có thể áp dụng đối với người đã thực hiện các tội phạm...
Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Điều 53 Bộ luật Hình sự
Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý....
Phân tích Điều 175 Bộ luật Hình sự
Đối tượng tác động của tội phạm là tài sản. Tất cả các loại tài sản gồm vật thực, tiền, tài sản hình thành trong tương lai, giấy tờ có giá và quyền tài...
Xem thêm


























