• Thứ ba, 14/05/2024 |
  • Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương |
  • 747 Lượt xem

Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 09 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là bao lâu?

Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được quy định tại Điều 190 Bộ luật lao động, cụ thể như sau:

1. Thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động thực hiện hòa giải tranh chấp lao động cá nhân là 06 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

2. Thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 09 tháng kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

3. Thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

4. Trường hợp người yêu cầu chứng minh được vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc lý do khác theo quy định của pháp luật mà không thể yêu cầu đúng thời hạn quy định tại Điều này thì thời gian có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc lý do đó không tính vào thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân.

Tư vấn về Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân 

Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là khoảng thời gian pháp luật cho phép các bên tranh chấp được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho mình. Hết thời gian này, các bên không có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi hết thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp. 

Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được xác định tùy theo các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Cụ thể, thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động giải quyết là 06 tháng, thời hiệu yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết là 09 tháng và thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết là 01 năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

Khoảng thời gian để yêu cầu các Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết về cơ bản là hợp lý và phù hợp với thực tiễn, không quá dài và cũng không quá ngắn, đủ để các bên có thời gian phát hiện ra hành vi xâm phạm đến lợi ích của mình và chuẩn bị các điều kiện cho việc yêu cầu giải quyết tranh chấp. 

Tuy nhiên vấn đề hay gặp vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định này là việc xác định ngày nào là ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm (tức là thời điểm để xác định thời hiệu) để tính thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp.

Ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm không có nghĩa là ngày các bên được luật sư hay nhà tư vấn nói cho biết rằng quyền lợi của họ bị xâm phạm (như quyết định sa thải hay đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động là trái pháp luật). Ngày phát hiện ra hành vi mà bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm cần phải được hiểu là ngày xảy ra sự kiện pháp lý hay hành vi pháp lý mà bên tranh chấp biết được và cho rằng có xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình. 

Cần lưu ý, trong một số trường hợp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc lý do khác theo quy định của pháp luật mà không thể yêu cầu đúng thời hạn thì thời gian có sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc lý do đó sẽ không tính vào thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân. Trong những trường hợp đó xét về mặt hình thức trên thực tế thời gian yêu cầu giải quyết tranh chấp sẽ dài hơn so với thời hiệu mà pháp luật quy định.

Việc quy định một số thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện là điểm mới của BLLĐ năm 2019 so với BLLĐ năm 2012. Việc bổ sung quy định này vào BLLĐ năm 2019 là phù hợp, bởi nó tương thích với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về giải quyết các tranh chấp dân sự, đồng thời đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân.

Việc giải quyết các tranh chấp lao động tại Tòa án tuy tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng riêng về thời hiệu lại theo các quy định của luật chuyên ngành (BLLĐ) nên việc bổ sung quy định này trong BLLĐ năm 2019 là hoàn toàn phù hợp và đảm bảo tính toàn diện cũng như đồng bộ của pháp luật. 

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Ngày 10/10 có được nghỉ không?

Ngày 10/10 là ngày giải phóng thủ đô. Ngày 10/10 là ngày truyền thống của Luật sư Việt Nam. Ngày 10/10 là ngày chuyển đổi số quốc gia. Đây còn là ngày mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Vậy Ngày 10/10 có được nghỉ không?...

Loại hợp đồng lao động theo Bộ luật lao động mới nhất

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới trong thời gian chưa ký kết hợp đồng lao động mới thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích của hai bên được thực hiện theo hợp đồng đã giao...

Thời gian nghỉ giữa giờ ngày làm việc như thế nào?

Trong bộ luật Lao động quy định rõ về các quyền, nghĩa vụ của người lao động trong quan hệ lao động. Trong đó, có những quy định cụ thể về ngày, giờ làm việc và thời giờ nghỉ...

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do thai sản

Tôi ký hợp đồng lao động 24 tháng nhưng làm việc được 10 tháng thì tôi mang thai, công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với...

Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động

Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động là quan điểm, tư tưởng pháp lý chi phối quá trình giao kết hợp đồng lao động. Với tư cách là một quan hệ khế ước, quá trình giao kết hợp đồng lao động phải tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp đồng nói chung, đồng thời đảm bảo các nguyên tắc đặc thù của hợp đồng lao động nói riêng....

Xem thêm