Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Pháp luật quy định chỉ dẫn địa lý như thế nào?
  • Chủ nhật, 20/08/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 469 Lượt xem

Pháp luật quy định chỉ dẫn địa lý như thế nào?

Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể.

Để được quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý thì cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đều phải thực hiện thủ tục đăng ký chỉ dẫn địa lý đó. Vậy, pháp luật quy định chỉ dẫn địa lý như thế nào? Khách hàng quan tâm vui lòng cùng chúng tôi đi theo dõi bài viết.

Khái niệm chỉ dẫn địa lý

Thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” (Geographical indication) được hiểu là “chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của hàng hóa”.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Hiệp định TRIPS, chỉ dẫn địa lý được định nghĩa như sau: “Là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn về lãnh thổ của một nước thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng uy tín hoặc đặc tính khác của hàng hóa chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định”.

Căn cứ vào tính chất đặc thù của hàng hóa bắt nguồn từ một địa phương, một nước hoặc một khu vực, Điều 22.2.(a) Hiệp định TRIPS quy định nghĩa vụ của các nước thành viên phải quy định các biện pháp pháp lý cho các bên liên quan nhằm ngăn chặn việc sử dụng các chỉ dẫn có khả năng chỉ dẫn một cách sai lệch về nguồn gốc địa lý thực sự của sản phẩm. Trong trường hợp có hành vi sử dụng các chỉ dẫn địa lý sai lệch về nguồn gốc của sản phẩm, các nước thành viên có quyền từ chối hoặc sử dụng biện pháp cứng rắn hơn là tước hiệu lực đăng ký của một nhãn hiệu hàng hóa mang một chỉ dẫn sai lệch đó. Các nước thành viên đồng thời phải quy định các hình thức pháp lý để nhằm ngăn chặn bất kỳ việc sử dụng nào có thể gây hành vi cạnh tranh bất hợp pháp được quy định tại Điều 10 bis Công ước Paris (Điều 22.2.b). Việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý có thể được áp dụng chống lại một chỉ dẫn địa lý mà nếu xét theo nghĩa đen sẽ gây ra sự hiểu nhầm (22.4). Đặc biệt đối với các loại rượu vang và rượu mạnh thì việc bảo hộ bổ sung sẽ được áp dụng nhằm ngăn chặn việc sử dụng các chỉ dẫn, thậm chí ngay cả trong trường hợp xuất xứ thực sự được chỉ dân hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch hoặc sử dụng đi kèm với các thuật ngữ “loại”, “kiểu”, “dạng”, “phỏng theo” hoặc những thuật ngữ tương tự (Điều 23.1).

Theo quy định tại Điều 24.6 của Hiệp định TRIPS thì việc các nước thành viên không được bảo hộ đối với một chỉ dẫn địa lý của một nước thành viên khác mà trùng với tên gọi chung của loại hàng hóa hoặc loại dịch vụ đó. Nguyên tắc này cũng được áp dụng đối với các sản phẩm rượu mà giống với tên thông thường của các loại rượu được chế biến từ nho tại lãnh thổ của một nước thành viên, kể từ ngày thỏa ước WTO có hiệu lực vào ngày 01/01/1995. Các nước thành viên của Hiệp định TRIPS không được bảo hộ đối với các chỉ dẫn địa lý không được bảo hộ hoặc đã bị chấm dứt việc bảo hộ ở nước xuất xứ hoặc những chỉ dẫn địa lý đã không còn được sử dụng tại nước đó (Điều 24.9)

Rượu là sản phẩm đặc biệt được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày của con người, do vậy rượu có thị trường tiêu thụ rộng lớn. Hiệp định TRIPS có các quy định về việc bổ sung đối với các chỉ dẫn địa lý cho rượu và cho rượu mạnh nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm hoặc làm hàng giả thu lợi nhuận bất hợp pháp. Ngoài việc bảo hộ đối với các chỉ dẫn địa lý cho rượu và rượu mạnh còn có việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý cho các loại rượu vang. Các trường hợp ngoại lệ cụ thể liên quan đến quyền cơ bản như quyền ưu tiên và quyền sử dụng các tên cá nhân và giới hạn thời gian đăng ký thì tùy thuộc vào trường hợp cụ thể.

Về thuật ngữ chỉ dẫn địa lý có nội hàm rộng liên quan đến sản phẩm có nguồn gốc từ một địa phương, một lãnh thổ, một khu vực và mới được chính thức hóa trên phạm vi toàn cầu về những điều kiện, yếu tố cấu thành chỉ dẫn địa lý của hàng hóa. Thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” lần đầu tiên được quy định trong Hiệp định TRIPS, tuy rằng trước đó có Công ước Paris quy định bảo hộ sở hữu công nghiệp chỉ đưa ra thuật ngữ chỉ dẫn nguồn gốc (Indication of source) và “tên gọi xuất xứ hàng hóa” (Appellation oforigin).

Chỉ dẫn nguồn gốc được hiểu là từ ngữ hay dấu hiệu nhằm chỉ rõ hàng hóa có nguồn gốc từ một nước, một địa phương. Chỉ dẫn nguồn gốc đóng vai trò chỉ dẫn về nguồn gốc của hàng hóa mà không cần gắn với một sự liên quan nào giữa chất lượng hàng hóa và nơi sản xuất ra hàng hóa đó. Chỉ dẫn nguồn gốc là những thông tin phản ánh chung chung về một nơi sản xuất, kinh doanh, địa chỉ của một doanh nghiệp nào đó, do vậy việc bảo hộ loại chỉ dẫn này chỉ có thể bảo hộ dưới hình thức gián tiếp bằng biện pháp cấm đoán việc sử dụng những thông tin sai lệch về nguồn gốc hàng hóa mà thôi. Chỉ dẫn nguồn gốc thường đóng vai trò thông báo hàng hóa đó từ đâu, ví dụ “Made in Vietnam” hay “Product of Vietnam”.

Trước khi Luật Sở hữu trí tuệ chưa được ban hành thì chỉ dẫn địa lý được hiểu thế nào?

Ở Việt Nam, trước khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành (2005), quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ được quy định tại Phần thứ sáu của Bộ luật Dân sự năm 1995, và Phần thứ sáu này là một chế định về quyền tài sản. Tên gọi xuất xứ hàng hóa được quy định tại Điều 786 Bộ luật Dân sự “Tên gọi xuất xứ hàng hóa là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó”.

Quy định trên được làm rõ tại Nghị định số 63/CP, một tên gọi xuất xứ hàng hóa được bảo hộ phải là tên địa lý của một nước hoặc một địa phương là nơi mà hàng hóa tương ứng được sản xuất và hàng hóa đó phải có tính chất, chất lượng đặc thù do yếu tố địa lý tự nhiên, con người) của nước, địa phương đó quyết định. Điều 7 Nghị định số 63/CP còn phân biệt nếu nước, địa phương nói trên không phải là Việt Nam hoặc không thuộc về Việt Nam, tên gọi xuất xứ hàng hóa tương ứng chỉ được xem xét bảo hộ tại Việt Nam nếu đang được bảo hộ tại nước mang tên hoặc có địa phương mang tên đó.

Tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 63/CP quy định những đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa là tên gọi xuất xứ hàng hóa tại Việt Nam, nếu các chỉ dẫn đó không phải là tên địa lý (kể cả các dấu hiệu mang tính chất biểu tượng của nước, địa phương là nơi xuất xứ của hàng hóa nhưng không phải là tên địa lý của nước, địa phương đó). Những tên gọi xuất xứ hàng hóa đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa và đã mất chức năng chỉ dẫn xuất xứ hàng hóa đó, cũng không được bảo hộ là tên gọi xuất xứ hàng hóa.

Khái niệm chỉ dẫn nguồn gốc được đề cập trong Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883. Thỏa ước Madrid cũng có quy định về chống việc chỉ dẫn sai nguồn gốc của hàng hóa, hành vi chỉ dẫn sai là hành vi lừa dối, bịp bợm gây ra những nhầm lẫn dẫn đến thiệt hại cho người tiêu dùng. Công ước Paris đã quy định tương đối cụ thể về trách nhiệm của các nước thành viên trong việc bảo đảm quyền đối với chỉ dẫn địa lý của các công dân. Sau Công ước Paris, các thỏa ước và hiệp định sau đây cũng có những quy định chỉ dẫn nguồn gốc xuất xứ hàng hóa:

– Thỏa ước Madrid quy định việc sử dụng chỉ dẫn nguồn gốc không được sử dụng các dấu hiệu bất kỳ nào nhằm gây ra sự nhầm lẫn, hình dung sai về chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hóa đối với người tiêu dùng trong quan hệ mua bán, chào bán, quảng cáo…; Hiệp định GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại – General Aggreement on Tariff and Trade, Geneva 1947) cũng có những nội dung tương tự như Thỏa ước Madrid quy định về chỉ dẫn địa lý của sản phẩm, hàng hóa;

– Thỏa ước Lisbon về bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa và đăng ký quốc tế tên gọi xuất xứ hàng hóa (1958), quy định các nước thành viên có nghĩa vụ duy trì hiệu lực bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa chừng nào tên gọi đó còn được bảo hộ tại nước xuất xứ.

Ở Việt Nam, do nhu cầu hội nhập khu vực và quốc tế về lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng, đồng thời Việt Nam cũng chuẩn bị những điều kiện cần và đủ để có thể thỏa thuận gia nhập WTO nên việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đã được quy định trong Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000.

Tại Điều 10 Nghị định quy định những thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hóa phải thỏa mãn các điều kiện sau đây thì được bảo hộ là chỉ dẫn địa lý:

– Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia;

– Chỉ dẫn địa lý được thể hiện trên hàng hóa, bao bì hàng hóa hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc mua bán hàng hóa nhằm chỉ dẫn rằng hàng hóa nói trên có nguồn gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại hàng hóa này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên.

Tại khoản 2 Điều 10 Nghị định số 54/CP đã quy định việc bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa theo quy định của pháp luật hiện hành trong trường hợp chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hóa. Theo quy định trên, sự cần thiết phải xác định những dấu hiệu tương đồng và những dấu hiệu không tương đồng giữa chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa.

Như vậy, những yếu tố, điều kiện của chỉ dẫn địa lý được quy định tại Điều 10 Nghị định số 54/CP có những nét tương đồng với quy định tên gọi xuất xứ hàng hóa tại Điều 786 Bộ luật Dân sự.

Điều 10 Nghị định số 54/CP đã quy định những thông tin sau đây không được bảo hộ là chỉ dẫn địa lý:

 – Tên gọi thông thường của hàng hóa;

– Tên gọi của hàng hóa đã mất khả năng chỉ dẫn nguồn gốc địa lý.

Những quy định tại Điều 10 Nghị định số 54/CP về những yếu tố cấu thành chỉ dẫn địa lý khi yếu tố đó thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh dùng để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia. Tuy nhiên, sản phẩm, hàng hóa có địa chỉ xác định đó phải có chất lượng, tính chất đặc trưng hoặc có các đặc tính khác của loại hàng hóa này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên. Như vậy, yếu tố địa lý, đặc điểm thổ nhưỡng và những điều kiện tự nhiên khác của địa phương, của một quốc gia, một vùng lãnh thể là những yếu tố cơ bản kết hợp với điều kiện xã hội đã tạo ra những sản phẩm, hàng hóa độc đáo mà chỉ riêng tại địa chỉ đó mới có được.

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Nhãn hiệu không được sử dụng 3 năm liên tiếp có bị chấm dứt hiệu lực không?

Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu, trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy nhãn hiệu không được sử dụng 3 năm liên tiếp sẽ không bị chấm dứt hiệu lực theo Điều 95 Luật Sở hữu trí...

Xâm phạm bí mật kinh doanh bị phạt như thế nào?

Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh sẽ bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng. Ngoài ra còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sụng là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính về cạnh tranh; tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi...

Quyền nhân thân của tác giả có được chuyển giao hay không?

Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định...

Sinh viên photo sách giáo trình để học có vi phạm bản quyền tác giả không?

Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2009 thì: Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở...

Tên thương mại có chuyển nhượng được không?

Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi