• Thứ tư, 06/09/2023 |
  • Tư vấn Luật Hình sự |
  • 1311 Lượt xem

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự

Người bị buộc tội dược coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo khoản 3 Điều 31 Hiến pháp 2013.

Trong tố tụng hình sự nói chung thì nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong thực tế không nhiều người nắm được quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này.

Trong bài viết hôm nay, chúng tôi sẽ cung cấp tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan đến vấn đề: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự.

Tố tụng hình sự là gì?

Tố tụng hình sự là quá trình xét xử của Luật Hình sự. Mặc dù, thủ tục tố tụng hình sự khác biệt so với các tài phán khác nhưng quá trình này thường bắt đầu bằng một cáo buộc hình sự chính thức với người bị xét xử hoặc được tại ngoại hoặc bị giam giữ,…

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự

Thứ nhất: Quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội

Căn cứ quy định tại khoản 3 – Điều 31 – Hiến pháp năm 2013, cụ thể:

“ Người bị buộc tội dược coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”

Bên cạnh đó, quy định tại Điều 13 – Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, cụ thể:

“ Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”

Thứ hai: Phân tích quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự

– Không ai có thể bị coi là có tội khi hành vi khi họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự và chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

+ Yêu cầu về lỗi phải được chứng minh theo trình tự thủ tục đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy tố xét xử là đúng quy định pháp luật. Bị can, bị cáo phải được coi là vô tội cho đến khi lỗi của bị can, bị cáo đó được chứng minh. Nếu lỗi không được chưng minh, đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh.

+ Yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý là việc truy tố, xét xử một người phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện, bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một cách khác quan, toàn diện, đầy đủ.

+ Yêu cầu phải có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, người bị tình nghi, bị can, bị cáo được coi là không có tội cho đến khi có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó.

 – Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội:

+ Người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, phải tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục luật định.

+ Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án, không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội. Tòa án phải hoàn toàn dựa vào cơ sở các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh bị cáo có tội. Nguyên tác suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên các chứng cứ xác thực không có sự nghi ngờ.

+ Tất cả sự nghi ngờ đối với người bị bắt, tạm giam, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Khi có những nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ xuất hiện nếu không chứng minh làm rõ được thì những nghi ngờ này được hiểu và giải thích theo hướng có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo.

– Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận trả tự do hoặc tuyên bố người bị buộc tội không phạm tội. Đây là quy định rõ ràng, dứt khoát và tinh thần này được thể hiện ở các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.

Như vậy, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự đã được chúng tôi nêu và phân tích cụ thể trong bài viết phía trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng phân tích sâu vào nguyên tắc suy đoán vô tội bằng những quy định cụ thể của pháp luật. Chúng tôi mong rằng với những nội dung đã trình bày trong bài viết sẽ giúp ích được với quý bạn đọc.

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Người bào chữa là gì? Người bào chữa gồm những ai?

Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào...

Xử lý hành vi nhiều người hiếp dâm một người

Cháu gái gần nhà tôi 17 tuổi đi học thêm về bị 4 người chưa thành niên hiếp dâm. Xin hỏi 4 người kia có bị truy cứu trách nhiệm hình sự...

Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt

Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt, được hiểu là hành vi của người chỉ huy điều khiển phương tiện giao thông đưòng sắt (như tàu hỏa, xe goòng, ô tô bánh sắt trên đường ray xe lửa và các phương tiện giao thông khác chạy trên đường ray thuộc hệ thông đường sắt Việt Nam) đã không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ các qui định...

Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy mới nhất

Cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy, được hiểu là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma túy trái với ý muôn của...

Quan hệ với bạn gái 17 tuổi có sao không?

Pháp luật chỉ nghiêm cấm hành vi giao cấu đối với trẻ em dưới 16 tuổi ngay cả khi có sự đồng thuận. Tuy nhiên, đối với trường hợp này bạn gái đã 17 tuổi không phải là đối tượng của các tội phạm do pháp luật quy...

Xem thêm