Khi nào cần phải ra quyết định truy nã bị can?
Truy nã bị can là một hệ thống hoạt động của cơ quan điều tra nhằm tìm kiếm để xác định bị can đang ở đâu hoặc bắt giữ những bị can đang lẩn trốn, phục vụ cho việc điều tra, xử lý tội phạm.
1. Quy định về truy nã bị can theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Theo quy định tại Điều 231 – Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về Truy nã bị can như sau:

“1. Khi bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can.
2. Quyết định truy nã ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của bị can, đặc điểm để nhận dạng bị can, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này; kèm theo ảnh bị can (nếu có).
Quyết định truy nã bị can được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai để mọi người phát hiện, bắt người bị truy nã.
3. Sau khi bắt được bị can theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã. Quyết định đình nã được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo công khai.”
2. Tư vấn và bình luận về các quy định về truy nã bị can theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Thứ nhất: Truy nã bị can là một hệ thống hoạt động của cơ quan điều tra nhằm tìm kiếm để xác định bị can đang ở đâu hoặc bắt giữ những bị can đang lẩn trốn, phục vụ cho việc điều tra, xử lý tội phạm.
Thứ hai: Điều luật quy định về các trường hợp truy nã bị can, điều kiện và trình tự, thủ tục tiến hành truy nã bị can. Theo quy định tại điều luật có hai trường hợp cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã.
Trường hợp thứ nhất là khi bị can trốn. Điều luật không nói rõ là bị can trốn trong hoàn cảnh nào. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, có thể có các tình huống:
– Thứ nhất, là người bị khởi tố đã trốn từ trước khi cơ quan điều tra khởi tố bị can;
– Thứ hai, có thể người đó trốn ngay sau khi bị khởi tố về hình sự trước khi cơ quan điều tra tống đạt quyết định khởi tố về hình sự đối với người đó hoặc trước khi bị bắt (trong trường hợp phải áp dụng biện pháp ngăn chặn này); – Thứ ba, có thể người bị khởi tố bỏ trốn khỏi nơi tạm giam, tạm giữ.
Trường hợp thứ hai là khi cơ quan điều tra không biết bị can đang ở đâu. Đó là trong những tình huống mà cơ quan điều tra không biết là người bị khởi tố đang ở đâu. Có thể tại thời điểm đó, người bị khởi tố không có thông tin về việc bị khởi tố về hình sự. Có thể, người bị khởi tố đã nhận được thông tin về việc bị khởi tố nhưng chưa nhận được quyết định của cơ quan điều tra hoặc các thông tin chính thức khác về sự cần thiết phải xuất hiện trước cơ quan điều tra và không có ý định bỏ trốn. Mặc dầu vậy cơ quan điều tra không biết được người bị khởi tố đang ở đâu vì vậy mà phải áp dụng biện pháp truy nã.
– Theo quy định tại Điều luật thì chỉ có Cơ quan điều tra có thẩm quyền ra quyết định truy nã bị can. Điều luật cũng quy định rõ những thông tin cần thiết phải được ghi trên Quyết định truy nã. Điều này nhằm ngăn ngừa hiện tượng nhầm lẫn có thể xảy ra trong quá trình truy nã.
– Căn cứ vào nội dung Điều luật, trong Quyết định truy nã phải ghi rõ bốn nhóm thông tin:
+ Thứ nhất, là nhóm thông tin về ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm ra quyết định truy nã;
+ Thứ hai, nhóm thông tin về người ra quyết định (phải ghi rõ họ tên, chức vụ đang đảm nhận, cơ quan của người ra quyết định…);
+ Thứ ba, nhóm thông tin về bị can – đối tượng bị truy nã: họ tên, tuổi (nếu có nhiều tên họ khác nhau thì cần ghi hết những tên họ đó), nơi cư trú của bị can (nếu không có nơi đăng ký thường trú thì ghi rõ những nơi thường xuất hiện); đặc điểm để nhận dạng bị can (chiều cao, khuôn mặt, những đặc điểm dị tật, hoặc những đặc điểm đặc biệt dễ nhận biết…), ảnh của bị can kèm theo, nếu có;
+ Thứ tư, tội phạm mà bị can đã bị khởi tố. Phải ghi rõ tội danh và điều luật theo Bộ luật hình sự.
Thứ ba: Theo quy định của pháp luật mọi người đều có nghĩa vụ phát hiện và có quyền bắt, giữ người bị truy nã. Điều luật quy định, Quyết định truy nã phải được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng là nhằm bảo đảm để những thông tin về việc truy nã, đối tượng truy nã đến được với mọi người.
Trong trường hợp cần tư vấn pháp luật hình sự, bạn có thể liên hệ với Luật sư của Luật Hoàng Phi qua TỔNG ĐÀI TƯ VẤN LUẬT MIỄN PHÍ 19006557 để được tư vấn.
BÀI VIẾT MỚI NHẤT
Quy định của pháp luật về cấm huy động vốn
Điều luật quy định hình phạt cấm huy động vốn là hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội, đó là hình phạt buộc pháp nhân thương mại không được huy động vốn bằng các hình thức khác...
Mẫu Hợp đồng góp vốn đầu tư mới nhất 2025
Hợp đồng góp vốn đầu tư là một bản hợp đồng mang tính chất dân sự, với nội dung chính của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc sẽ cùng nhau đóng góp công sức cũng như tài sản của mình để cùng hiện thực hóa một công việc, một dự án đầu tư kinh doanh cụ thể nào...
Rút tiền của người khác trong thẻ ATM của mình có là chiếm đoạt tài sản không?
Em có đăng ký học một lớp bảo hiểm và được công ty cấp thẻ ATM mang tên em. Người khác dùng tên em để bán bảo hiểm và được công ty trả 40 triệu tiền hoa hồng và gửi vào tài khoản của em. Em đã dùng chứng minh thư để rút số tiền đó. Vậy có bị xem là chiếm đoạt tài sản...
Thu nhập chịu thuế TNCN mới nhất 2025
Những người lao động làm việc tại các cơ quan nhà nước, các công ty, doanh nghiệp thì ngoài mức lương nhận được họ còn quan tâm đến vấn đề là với mức lương bao nhiêu thì sẽ phải nộp thuế thu nhập cá...
Tư vấn về yêu cầu hủy hợp đồng mua bán, tặng cho quyền sử dung đất
Tôi là và bà Trần Thị Lan có 10ha đất được khai phá và sử dụng từ năm 1994 thuộc quyền quản lý của Ban quản lý rừng phòng hộ Huyện Mù Cang Chải, Tỉnh Yên Bái. Ngày 28/9/2015, tôi bán cho ông Nguyễn Văn Minh 8ha đất nêu trên với giá 165 triệu đồng và tặng 2ha đất nêu trên cho nhà chùa (ông Minh là đại diện nhà chùa nhận). Do quen biết nên hợp đồng mua bán và tặng cho không qua công chứng,...
Xem thêm


























