• Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tư vấn Luật Hình sự |
  • 834 Lượt xem

Căn cứ quyết định hình phạt của Tòa án dựa vào?

Khi quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội.

Khi quyết định hình phạt Tòa căn cứ vào đâu?

Điều 50. Căn cứ quyết định hình phạt

1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. 

Bình luận về căn cứ quyết định hình phạt của Tòa án

Điều luật 50 của Bộ luật hình sự chính là câu trả lời cho câu hỏi Căn cứ quyết định hình phạt của Tòa án dựa vào? Điều 50 xác định các căn cứ quyết định hình phạt trong khoản 1 và xác định bổ sung căn cứ quyết định hình phạt tiền trong khoản 2. Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức khác nhau) trong phạm vị luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự (bao gồm người phạm tội và pháp nhân thương mại). 

Quyết định hình phạt chỉ đặt ra cho các trường hợp chủ thể chịu trách nhiệm hình sự không được miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt. Đây là các trường hợp cần thiết phải áp dụng hình phạt nhằm trừng trị và giáo dục chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. 

Đa số các khung hình phạt được quy định đều gồm nhiều loại hình phạt chính khác nhau. Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự là sự lựa chọn một trong số các hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt có các mức khác nhau trong khung hình phạt được quy định. Nếu khung hình phạt được quy định chỉ có một loại hình phạt chính có các mức khác nhau thì quyết định hình phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt được quy định. 

Quyết định hình phạt bổ sung có nội dung tương tự như quyết định hình phạt chính. Đó là việc lựa chọn một hoặc nhiều loại hình phạt bổ sung tùy sự cho phép của luật và xác định mức hình phạt trong khung quy định để áp dụng kèm theo hình phạt chính. 

Quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ sung. Và Quyết định hình phạt cũng có thể được hiểu theo nghĩa rộng là quyết định biện pháp xử lý đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Theo nghĩa này, quyết định hình phạt là hoạt động tiếp theo việc định tội của Tòa án, bao gồm quyết định miễn hình phạt, quyết định hình phạt chính, hình phạt bổ sung, quyết định các biện pháp tư pháp và quyết định biện pháp chấp hành hình phạt (như quyết định cho hưởng án treo). Điều luật xác định các căn cứ phải dựa vào khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội bao gồm các căn cứ đối với các hình phạt nói chung cũng như các căn cứ bổ sung đối với hình phạt tiền nói riêng. 

Theo quy định trong khoản 1 của điều luật, các căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội bao gồm: 

– Các quy định của BLHS; 

– Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; 

– Nhân thân người phạm tội; 

– Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. 

Về căn cứ thứ nhất – các quy định của BLHS 

Khi quyết định hình phạt, Toà án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội. Những quy định này bao gồm các quy định trong Phần thứ nhất của BLHS – Những quy định chung và các quy định trong Phần thứ hai của BLHS – Các tội phạm. 

Các quy định trong Phần thứ nhất của BLHS là:

– Quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 2 BLHS); 

– Quy định về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội (khoản 1 Điều 3 BLHS); 

– Các quy định về hình phạt đối với người phạm tội (Điều 30 đến Điều 45 BLHS); 

– Các quy định về các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội (Điều 46 đến Điều 49 BLHS); 

– Các quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội (Điều 50 BLHS), về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 51 BLHS), về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 52 BLHS), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53 BLHS); 

– Các quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể (từ Điều 54 đến Điều 59 BLHS); và 

– Quy định về án treo (Điều 65 BLHS). 

Các quy định trong Phần thứ hai của BLHS là các quy định về khung hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung cho từng tội phạm. 

Việc xác định “các quy định của Bộ luật này” là căn cứ đầu tiên của quyết định hình phạt được xem như sự đảm bảo để thực hiện nguyên tắc pháp chế trong quyết định hình phạt đối với người phạm tội đồng thời cũng để thực hiện các nguyên tắc khác của luật hình sự, vì trong các quy định của BLHS đều thể hiện các nguyên tắc đó. 

Về căn cứ thứ hai – tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội 

Các khung chế tài của các tội phạm được xây dựng chủ yếu dựa trên tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm nhưng khi quyết định hình phạt cụ thể trong phạm vi khung chế tài xác định, đòi hỏi toà án vẫn phải cân nhắc tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi quyết định hình phạt cho người phạm nhiều tội hoặc cho nhiều người phạm nhiều tội. Hình phạt cụ thể được quyết định mặc dù chỉ trong phạm vi khung chế tài cho phép nhưng phải tương xứng với tính chất nguy hiểm của từng tội phạm trong sự so sánh với những tội phạm khác. Có như vậy mới đảm bảo được tính thống nhất trong quyết định hình phạt đối với tất cả các hành vi phạm tội. 

Cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt sẽ đảm bảo được tính thống nhất và sự công bằng trong quyết định hình phạt đối với các trường hợp phạm tội khác nhau của cùng tội phạm. Vì quyết định hình phạt là quyết định trong phạm vi khung hình phạt cho phép nên có quan điểm cho rằng quyết định hình phạt chủ yếu căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc trước hết vào những yếu tố sau: 

– Tính chất của hành vi phạm tội như thủ đoạn, công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện…, 

– Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; – Mức độ lỗi như tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội; 

– Hoàn cảnh phạm tội; 

– Những tình tiết về nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội132). 

Về căn cứ thứ ba – nhân thân người phạm tội 

Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt đòi hỏi loại và mức hình phạt cụ thể không chỉ tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà còn phải phù hợp với nhân thân người phạm tội để đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội. 

Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội cần cân nhắc trong tổng thể khi quyết định hình phạt là những đặc điểm nhân thân sau: 

– Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không, là người chưa thành niên phạm tội hay đã thành niên…, 

– Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh khả năng giáo dục họ như có thái độ tự thú hoặc hối cải, lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố…; 

– Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ như là người bị bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ hoặc là người có hoàn cảnh bản thân hay gia đình đặc biệt khó khăn… 

Về căn cứ thứ tư – các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự 

Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự được nêu trong căn cứ này là những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 51 và Điều 52 BLHS và có thể được phân thành ba nhóm khác nhau: 

– Các tình tiết làm giảm xuống hoặc tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; 

– Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục người phạm tội; và 

– Các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội. 

Như vậy, các tình tiết này thực ra đã thuộc về nội dung của căn cứ thứ hai và thứ ba. Mặc dù vậy, luật hình sự Việt Nam vẫn coi các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là căn cứ quyết định hình phạt độc lập mà Toà án phải cân nhắc (nếu có) trong mối liên hệ với toàn bộ vụ án để quyết định giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự trong phạm vi khung hình phạt cho phép. 

Khoản 2 của điều luật xác định các căn cứ bổ sung, ngoài các căn cứ nêu tại khoản 1, khi quyết định hình phạt tiền đối với người phạm tội. Theo đó, khi lựa chọn hình phạt tiền và xác định mức phạt tiền áp dụng đối với người phạm tội (có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung), Tòa án còn phải căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành của người phạm tội. Đây là các căn cứ đảm bảo cho hình phạt này được thi hành trên thực tế để đạt được mục đích của hình phạt. 

Trên đây là nội dung bài viết Căn cứ quyết định hình phạt của Tòa án dựa vào? của Công ty Luật Hoàng Phi? Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn 1900.6557

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Tạm đình chỉ điều tra là gì? Trường hợp nào tạm đình chỉ điều tra?

Tạm đình chỉ điều tra là việc tạm ngừng tiến hành các hoạt động điều tra đối với vụ án hoặc đối với bị can vì những lý do nhất...

Biên bản điều tra là gì và khi nào cần lập biên bản điều tra?

Biên bản điều tra là văn bản tố tụng được lập theo quy định chung, ghi lại đầy đủ, trung thực nội dung, trình tự diễn biến các hoạt động điều tra đã tiến...

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định Bộ luật hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình...

Quan hệ tình dục với người dưới 18 tuổi có bị sao không?

Nếu người nào từ 18 tuổi trở lên có hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục với dưới từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà (i) gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; (ii) biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm....

Tội cản trở đồng đội thực hiện nhiệm vụ xử phạt như thế nào?

Cản trở đồng đội thực hiện nhiệm vụ được hiểu là hành vi của quân nhân tạo ra các điều kiện, hoàn cảnh gây trở ngại khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ của đồng đội (như cất giấu vũ khí, tài liệu, phương tiện...) hoặc tác động đến quân nhân đang thực hiện nhiệm vụ bằng các hình thức như dùng vũ lực đe dọa, ép buộc không cho quân nhân đó (đồng đội) thực hiện...

Xem thêm