Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Tử hình là gì? Khi nào áp dụng hình phạt tử hình?
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 745 Lượt xem

Tử hình là gì? Khi nào áp dụng hình phạt tử hình?

Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật hình sự quy định.

Tử hình là gì?

Điều 40 Bộ luật hình sự đưa ra định nghĩa về tử hình như sau:

1. Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, 

b) Người đủ 75 tuổi trở lên; 

c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

4. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân. 

Tư vấn về áp dụng hình phạt tử hình theo Bộ luật hình sự

Điều luật quy định tính chất, phạm vi áp dụng cũng như điều kiện thi hành hình phạt tử hình. Hình phạt tử hình là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan. Nó là phương tiện để xã hội tự bảo vệ mình, chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó. Tội phạm đe dọa sự tồn tại của xã hội nên xã hội phải phản ứng một cách tự nhiên là trừng trị người phạm tội. Là một loại hình phạt, nên hình phạt tử hình cũng như các hình phạt khác trong hệ thống hình phạt, có những 

đặc điểm chung. 

Tuy nhiên, với tính chất là một loại hình phạt đặc biệt, hình phạt tử hình có những đặc điểm riêng: 

– Thứ nhất, tử hình là một loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt; 

– Thứ hai, hình phạt tử hình có mục đích phòng ngừa tái phạm tội mới từ phía người bị kết án một cách triệt để nhưng không có mục đích giáo dục người bị kết án vì đã tước bỏ cơ hội tái hòa nhập và phục thiện của họ, 

– Thứ ba, hình phạt tử hình có khả năng đạt được hiệu quả cao trong phòng ngừa chung; 

– Thứ tư, hình phạt tử hình là hình phạt không có khả năng khắc phục khi bị quyết định sai. 

Thực tiễn tại Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới cho thấy việc duy trì hình phạt tử hình là một biện pháp cần thiết để trừng | trị, răn đe và phòng ngừa các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc hạn chế quy định, áp dụng hình phạt tử hình và tiến đến xóa bỏ hình phạt này là xu thế khách quan.

Theo hướng đó, từ BLHS năm 1985 đến BLHS năm 2015, luật hình sự Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong quy định về hình phạt tử hình qua các lần sửa đổi các BLHS cũng như qua ban hành BLHS mới theo hướng thu hẹp diện các tội danh có quy định hình phạt tử hình; quy định chặt chẽ hơn các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình và mở rộng diện đối tượng không áp dụng, không thi hành hình phạt tử hình. 

1. Khoản 1 của điều luật xác định, tử hình là hình phạt đặc biệt vì nội dung nghiêm khắc nhất của nó là tước quyền sống của người bị kết án. Do tính chất đặc biệt này mà điều luật đã giới hạn phạm vi áp dụng của hình phạt tử hình. Theo đó có hai giới hạn về phạm vi áp dụng hình phạt tử hình.

Hình phạt tử hình, về nguyên tắc được giới hạn ở 4 nhóm tội phạm là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và chỉ được mở rộng đối với một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác. Đây là giới hạn thứ nhất về phạm vi – giới hạn nhóm tội phạm. Trong 4 nhóm tội này cũng như trong một số tội đặc biệt nghiêm trọng khác, hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Đây là giới hạn thứ hai – giới hạn về loại tội phạm. 

Theo phạm vi áp dụng hình phạt tử hình đã được xác định tại khoản 1 của điều luật, trong phần Các tội phạm của BLHS, hình phạt tử hình chỉ còn được quy định trong 18 điều luật về tội phạm. So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tội cướp tài sản (Điều 168); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252); tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); tội chống mệnh lệnh (Điều 394); tội đầu hàng địch (Điều 399). 

2. Khoản 2 của điều luật xác định các đối tượng không được áp dụng hình phạt tử hình theo hướng mở rộng hơn. Cụ thể, các đối tượng không được áp dụng hình phạt tử hình bao gồm người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng và người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. 

Trong các đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình, đối tượng từ 75 tuổi trở lên là đối tượng mới được bổ sung

Việc mở rộng phạm vi các trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình còn được thể hiện trong quy định tại khoản 3 Điều 57 BLHS. Theo điều khoản này, trường hợp phạm tội chưa đạt của các tội mà điều luật quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình chỉ có thể bị áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm. Đây là nội dung mới so với BLHS năm 1999 vì theo Bộ luật này, Tòa án vẫn có thể áp dụng hình phạt tử hình trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.

3. Khoản 3 của điều luật xác định các đối tượng không bị thi hành bản án tử hình. Quy định này, ở nghĩa nào đó có ý nghĩa hỗ trợ việc hạn chế áp dụng hình phạt tử hình. Theo đó, những đối tượng không bị thi hành án tử hình là: 

– Người bị kết án là phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; 

– Người bị kết án đủ 75 tuổi trở lên; và 

– Người bị kết án về tội tham ô tài sản, tôi nhận hối lộ đã chủ động (sau khi bị kết án) nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. 

So với BLHS năm 1999, quy định trên đây đã mở rộng thêm 2 đối tượng không bị thi hành bản án tử hình. Đó là người già từ đủ 75 tuổi trở lên và người bị kết án về tội tham ô tài sản, tôi nhận hối lộ mà thỏa mãn các điều kiện được quy định. Các điều kiện để người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ không bị thi hành bản án tử hình là: 

Thứ nhất, đã chủ động (sau khi bị kết án) nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ; 

Thứ hai, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. 

– Đối với các đối tượng trên đây, khi không bị thi hành bản án tử hình, hình phạt tử hình đã được tuyên được chuyển thành tù chung thân. Hình phạt tử hình đã tuyên cũng được chuyển thành hình phạt tù chung thân trong trường hợp người bị kết án được ân giảm.

Trên đây là nội dung bài viết Tử hình là gì? Khi nào áp dụng hình phạt tử hình? của Công ty Luật Hoàng Phi? Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn 1900.6557

Đánh giá bài viết:
5/5 - (6 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi