Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là bao lâu?
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 487 Lượt xem

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là bao lâu?

Điều 27 BLHS xác định ý nghĩa của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, quy định các thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cho những loại tội phạm và cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là nội dung được quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau:

1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng,

b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng,

c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. 

Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ. 

Tư vấn về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự

Điều luật xác định ý nghĩa của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, quy định các thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cho những loại tội phạm và cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. 

1. Khoản 1 của điều luật xác định, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do BLHS quy định mà khi hết thời hạn đó, người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Theo BLTTHS năm 2015, thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nhưng những cơ quan này chỉ được thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong thời hạn nhất định theo quy định của BLHS.

Về nguyên tắc, mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Do đó, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình do luật định, đồng thời cần phối hợp chặt chẽ với nhau để bảo đảm người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự kịp thời.

Tuy nhiên, trong thực tế có không ít trường hợp tội phạm đã xảy ra nhưng sau một thời gian dài cơ quan tiến hành tố tụng hình sự vẫn không phát hiện ra và người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu trong thời gian dài như vậy, cơ quan điều tra không có quyết định truy nã, người phạm tội không cố tình trốn tránh pháp luật, không phạm tội mới thì đối với họ việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự, trong đó có hình phạt là không còn cần thiết cũng như không còn hợp lý từ góc độ hiệu quả và mục đích của trách nhiệm hình sự và hình phạt cũng như từ góc độ phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của các chế định này. Do vậy, việc quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thể hiện rõ tính nhân đạo, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong chính sách hình sự của Nhà nước. 

2. Khoản 2 của điều luật xác định các thời hạn mà qua các thời hạn đó người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể: 

Khoản 2 của điều luật xác định bốn thời hạn của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Các thời hạn này được xác định cho bốn loại tội phạm theo cách phân loại tội phạm tại khoản 1 Điều 9 BLHS. Theo đó, thời hạn của thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: 

– 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng, là tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội không lớn nên mức cao nhất của khung hình phạt được quy định cho tội phạm này là hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù đến 03 năm. 

– 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng, là tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội lớn nên mức cao nhất của khung hình phạt được quy định cho tội phạm này là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù. 

– 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng, là tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội rất lớn nên mức cao nhất của khung hình phạt được quy định cho tội phạm này là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù. 

– 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, là tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn nên mức cao nhất của khung hình phạt được quy định cho tội phạm này là từ trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

3. Khoản 3 của điều luật xác định cách tính thời hạn. Theo đó, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện với 2 điều kiện: 

– Không thực hiện hành vi phạm tội mới mà BLHS quy định mức hình phạt tù cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù. Hành vi phạm tội mới này đòi hỏi đã được Tòa án có thẩm quyền đưa ra xét xử và xác định bằng bản án có hiệu lực pháp luật.

– Không cố tình trốn tránh và không có quyết định truy nã của cơ quan điều tra đối với họ. Trong đó, “không cố tình trốn tránh” được hiểu là không cố tình giấu địa chỉ, ẩn náu, thay đổi họ tên, hình dạng… làm cho cơ quan điều tra không biết họ ở đâu hoặc không phát hiện được. 

Như vậy, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được tính trong khoảng thời gian mà người phạm tội không thực hiện hành vi phạm tội mới mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù và họ cũng không cố tình trốn tránh cũng như không có quyết định truy nã của cơ quan điều tra đối với họ.

Nếu họ phạm tội mới mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù hoặc nếu họ cố tình trốn tránh và có quyết định truy nã của cơ quan điều tra đối với họ thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính lại từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới hoặc từ ngày người phạm tội ra đầu thú hoặc bị bắt giữ. 

Ngày tội phạm được thực hiện theo điều luật được hiểu là ngày mà hành vi nguy hiểm cho xã hội bị BLHS quy định là tội phạm xảy ra, không kể hậu quả của hành vi đó đã xảy ra hay chưa. Ngày thực hiện tội phạm hoàn toàn khác với ngày mà tội phạm bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện. Khi xác định ngày tội phạm được thực hiện, cần chú ý một số trường hợp đặc biệt sau: 

– Đối với các tội kéo dài, ngày tội phạm được thực hiện là ngày tội phạm kết thúc mà không phải là ngày tội phạm đó bắt đầu được thực hiện. Ví dụ: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249 BLHS) là tội kéo dài. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này được tính từ ngày tội phạm kết thúc (không còn hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy). Đó có thể là ngày tội phạm bị phát hiện hoặc là ngày người phạm tội ra đầu thú. 

– Đối với tội liên tục, ngày tội phạm được thực hiện là ngày hành vi (khách quan) cuối cùng của tội phạm được thực hiện. Ví dụ: Tội đầu cơ (Điều 196 BLHS) là tội liên tục. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội này được tính từ ngày hành vi mua vét hàng hóa cuối cùng được thực hiện. 

– Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội mà điều luật về tội phạm có quy định chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự và trường hợp phạm tội chưa đạt, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày hành vi phạm tội bị dừng lại, không thể thực hiện được do nguyên nhân khách quan. 

– Đối với phạm tội nhiều lần cũng như đối với trường hợp phạm nhiều tội, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự phải được xác định cho từng lần phạm tội cũng như cho từng tội.

– Trong trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền không được truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Đây là một trong những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015.

Trong trường hợp này, người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố vụ án hình sự thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố đó và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết rõ lý do (Điều 158 BLTTHS năm 2015). 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (7 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi