Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Thế nào là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội?
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 410 Lượt xem

Thế nào là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội?

Điều luật mô tả trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và xác định vấn đề trách nhiệm hình sự trong trường hợp này. Theo quy định này, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm và đã thực hiện nếu đã tự ý dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm đến cùng.

Quy định của BLHS về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. 

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. 

Bình luận về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Điều luật mô tả trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và xác định vấn đề trách nhiệm hình sự trong trường hợp này. Theo quy định này, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm và đã thực hiện nếu đã tự ý dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm đến cùng.

Để áp dụng thống nhất và đúng mục đích, điều luật mô tả tương đối cụ thể các dấu hiệu của trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. 

Theo nội dung đoạn 1 của điều luật, đây là trường hợp người phạm tội dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm (đến cùng) và việc dừng lại không phải vì bị ngăn cản mà do ý muốn chủ quan (tự mình). 

Trước hết, cần chú ý về thời điểm dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm “đến cùng”. Theo quy định, việc dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm “đến cùng chỉ có thể xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt và thuộc trường hợp chưa đạt chưa hoàn thành. 

Trong trường hợp tội phạm hoàn thành, trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không thể xảy ra được vì người phạm tội đã thực hiện tội phạm được “đến cùng”.

Trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng không thể xảy ra khi tội phạm thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành vì trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi mong muốn, chủ thể không còn thực hiện tội phạm nữa nên không thể có việc dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm. 

Thứ hai: Việc không thực hiện tiếp tội phạm phải là “tự mình” và “không có gì ngăn cản”. Theo đó, việc không thực hiện tiếp tội phạm phải hoàn toàn do động lực bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối.

Việc dừng lại, không thực hiện tiếp tội phạm là hoàn toàn “tự nguyện”. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp được tội phạm. Việc dừng lại cũng không phải để sau này tiếp tục thực hiện lại tội phạm.

Như vậy, việc dừng lại, không thực hiện tiếp tội phạm phải có tính “dứt khoát”. Dấu hiệu “không có gì ngăn cản” chỉ đòi hỏi là sự nhận thức chủ quan của chủ thể mà không đòi hỏi thực tế đúng là không có gì ngăn cản.

Nếu thực tế có sự ngăn cản nhưng chủ thể thực hiện tội phạm không biết điều đó khi dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm thì họ vẫn được coi là “tự mình” và việc dừng lại vẫn được coi là tự nguyện. 

Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do những động cơ khác nhau thúc đẩy như hối hận, sợ bị phát hiện, sợ bị trừng trị … Luật hình sự không đòi hỏi người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải thực sự hối hận… Vấn đề quan trọng ở đây là tội phạm đã được dừng lại, thiệt hại có thể gây ra đã không xảy ra. 

Đoạn 2 của điều luật xác định người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm.

Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người phạm tội về mặt chủ quan đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý định phạm tội của mình, không còn mong muốn thực hiện tội phạm “đến cùng như 

trường hợp phạm tội chưa hoàn thành. Xét về mặt khách quan, hành vị đã thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chưa có tính nguy hiểm đầy đủ của tội phạm muốn thực hiện vì chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của CTTP.

Trong sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan như vậy, hành vi đã thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được coi như đã mất tính nguy hiểm của tội phạm muốn thực hiện. Do vậy, việc miễn trách nhiệm hình sự “về tội định phạm” cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là có cơ sở. 

Đoạn 2 của điều luật cũng xác định, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ các dấu hiệu của tội phạm khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Quy định này nhằm khẳng định rõ hơn việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ đối với tội định phạm.

Ví dụ: Chủ thể tội giết người trong khi đang thực hiện tội phạm đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người (Điều 123 BLHS) nhưng người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS) nếu hành vi đã thực hiện (trước khi dừng lại thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm này. 

Một trường hợp khác có cùng tính chất như trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng chưa được BLHS Việt Nam quy định là trường hợp tự ý ngăn chặn tội phạm. Như đã phân tích, khi người phạm tội đã thực hiện tội phạm đến giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không được đặt ra.

Ví dụ: A đã đặt mìn để hủy hoại ô tô đỗ ban đêm ngoài đường của B. Khi đã đặt quả mìn dưới gầm ô tô và bật công tắc hẹn giờ của quả mìn thì tội phạm do A thực hiện đã là tội phạm chưa đạt đã hoàn thành. A không cần làm gì tiếp thì quả mìn vẫn sẽ nổ theo hẹn giờ.

Trong trường hợp này, vấn đề “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” không còn được đặt ra. A có thể ngăn được việc mìn nổ bằng cách tắt công tắc hẹn giờ để vô hiệu hóa quả mìn.

Hành động tích cực” như vậy được luật hình sự coi là trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự nếu hành động đó được thực hiện tự nguyện, “tự mình”. Trường hợp này chưa được quy định trong BLHS Việt Nam. Trong thực tế, nếu có trường hợp như vậy xảy ra thì có thể áp dụng Điều 16 theo nguyên tắc tương tự để miễn trách nhiệm hình sự.

Trên đây là nội dung bài viết Thế nào là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội? của Công ty Luật Hoàng Phi? Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn 1900.6557

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi