Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Quy định về tình thế cấp thiết theo Bộ luật hình sự mới nhất
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 390 Lượt xem

Quy định về tình thế cấp thiết theo Bộ luật hình sự mới nhất

Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Thế nào là tình thế cấp thiết theo Bộ luật hình sự?

Điều 23 Bộ luật hình sự quy định về Tình thế cấp thiết như sau:

1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. 

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

2. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Bình luận về Tình thế cấp thiết theo Bộ luật hình sự mới nhất

Chế định tình thế cấp thiết được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý, khuyến khích mọi người có hành động có ích, phù hợp với yêu cầu của xã hội khi đứng trước thực tế một thiệt hại đang xảy ra hoặc đang bị đe dọa xảy ra ngay. Cũng như phòng vệ chính đáng, hành động trong tình thế cấp thiết là quyền của mỗi người. 

1. Đoạn 2 khoản 1 của điều luật khẳng định, hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. Đoạn 1 khoản 1 xác định rõ cơ sở, nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết.

a. Cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết 

Mỗi người có quyền được hành động trong tình thế cấp thiết khi có thiệt hại đang xảy ra hoặc bị đe dọa xảy ra ngay. Thiệt hại này không đòi hỏi phải do hành vi của con người gây ra như ở trường hợp phòng vệ chính đáng, mà có thể do các nguồn khác nhau như do con vật, do thiên tai, do hỏng hóc kĩ thuật v… 

Với trách nhiệm của người dân, đòi hỏi mỗi người đứng trước thực tế như vậy cần phải có biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp phải gây ra thiệt hại khác. Tuy nhiên, biện pháp gây thiệt hại để ngăn chặn thiệt hại khác chỉ phù hợp với lợi ích xã hội và do vậy được coi là hợp pháp, khi không còn biện pháp khác (biện pháp không gây thiệt hại). Đây là điểm khác so với phòng vệ chính đáng.

Hành vi chống trả trong phòng vệ chính đáng thực chất là hành vi trực tiếp chống hành vi phạm tội cũng như hành vi vi phạm pháp luật và do vậy là cần thiết trong mọi trường hợp. Trong tình thế cấp thiết, lợi ích bị gây thiệt hại và lợi ích cần bảo vệ đều là lợi ích hợp pháp. Do vậy, khi còn biện pháp khác không gây thiệt hại mà vẫn có thể bảo vệ được lợi ích đang bị đe dọa thì việc gây thiệt hại là không cần thiết và hành động trong tình thế cấp thiết cũng không được đặt ra.

Như vậy, quyền được hành động trong tình thế cấp thiết chỉ phát sinh khi chỉ còn biện pháp phải gây thiệt hại để ngăn chặn thiệt hại khác. Nếu một người đã nhầm tưởng có cơ sở này mà trên thực tế không có và đã hành động trong tình thế cấp thiết thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết như trường hợp sai lầm.

b. Nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết 

Khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, người hành động được phép gây thiệt hại mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về việc gây thiệt hại này khi thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại được ngăn chặn. Việc gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp để bảo vệ lợi ích hợp pháp khác chỉ có ý nghĩa khi thiệt hại cần ngăn chặn lớn hơn. Sẽ là vô nghĩa khi ngăn chặn một thiệt hại bằng cách gây ra thiệt hại khác bằng hoặc lớn hơn.

Hành động trong tình thế cấp thiết là sự lựa chọn khi đứng trước xung đột lợi ích. Sự lựa chọn chỉ có ý nghĩa nên được xã hội và pháp luật chấp nhận khi lựa chọn lợi ích lớn hơn. 

Sự so sánh hai thiệt hại – thiệt hại gây ra và thiệt hại cần ngăn chặn được xét cả về tính chất và mức độ của thiệt hại. Thông thường, thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết là thiệt hại về tài sản. Ngoài ra, thiệt hại này cũng có thể là thiệt hại về sức khoẻ hoặc tự do của con người.

Như vậy, khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, mỗi công dân đều có thể được phép gây thiệt hại nhỏ hơn để ngăn chặn thiệt hại lớn hơn. 

2. Khoản 2 của điều luật xác định các dấu hiệu của trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. 

Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để được hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Theo khoản 1 thì người hành động trong tình thế cấp thiết chỉ được phép gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Điều đó có nghĩa khi thiệt hại gây ra không nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa thì không còn là trường hợp tình thế cấp thiết.

Tuy nhiên, sự so sánh hai loại thiệt hại trong tình thế cấp thiết là vấn đề không đơn giản, dễ dàng và điều này càng khó khăn hơn đối với người đang đứng trước sự đe dọa gây thiệt hại mà phải lựa chọn biện pháp ngăn chặn sự đe dọa đó. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ coi việc gây thiệt hại là không hợp pháp khi thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu… và chủ thể có lỗi đối với việc vượt quá đó.

Trường hợp này tuy phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ và vì hoàn cảnh phạm tội. Thể hiện điều này, BLHS quy định vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 51 BLHS). 

3. Tương tự như tình thế cấp thiết, luật hình sự một số quốc gia khác còn quy định một số trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự khác có tính chất tương tự như tình thế cấp thiết vì chủ thể cũng đứng trước sự xung đột lợi ích và đã chọn lợi ích lớn hơn. Đó là tình thế bị cưỡng bức tinh thần và tình thế xung đột nghĩa vụ. Trong đó: 

– Tình thế bị cưỡng bức tinh thần là trường hợp phải gây thiệt hại theo ý muốn của người đe dọa mà không còn cách nào khác để tránh thiệt hại lớn hơn mà người đe dọa sẽ gây ra nếu không thực hiện theo ý muốn đó; 

– Tình thế xung đột nghĩa vụ là trường hợp buộc phải vi phạm một nghĩa vụ để thực hiện nghĩa vụ khác có ý nghĩa lớn hơn. 

Cả hai trường hợp trên đây đều chưa được quy định trong BLHS. Nếu trong thực tế xảy ra trường hợp như vậy, có thể áp dụng tương tự điều luật này. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi