• Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tư vấn Luật Hình sự |
  • 580 Lượt xem

Quy định về tình thế cấp thiết theo Bộ luật hình sự mới nhất

Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Thế nào là tình thế cấp thiết theo Bộ luật hình sự?

Điều 23 Bộ luật hình sự quy định về Tình thế cấp thiết như sau:

1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. 

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.

2. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Bình luận về Tình thế cấp thiết theo Bộ luật hình sự mới nhất

Chế định tình thế cấp thiết được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý, khuyến khích mọi người có hành động có ích, phù hợp với yêu cầu của xã hội khi đứng trước thực tế một thiệt hại đang xảy ra hoặc đang bị đe dọa xảy ra ngay. Cũng như phòng vệ chính đáng, hành động trong tình thế cấp thiết là quyền của mỗi người. 

1. Đoạn 2 khoản 1 của điều luật khẳng định, hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. Đoạn 1 khoản 1 xác định rõ cơ sở, nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết.

a. Cơ sở phát sinh quyền hành động trong tình thế cấp thiết 

Mỗi người có quyền được hành động trong tình thế cấp thiết khi có thiệt hại đang xảy ra hoặc bị đe dọa xảy ra ngay. Thiệt hại này không đòi hỏi phải do hành vi của con người gây ra như ở trường hợp phòng vệ chính đáng, mà có thể do các nguồn khác nhau như do con vật, do thiên tai, do hỏng hóc kĩ thuật v… 

Với trách nhiệm của người dân, đòi hỏi mỗi người đứng trước thực tế như vậy cần phải có biện pháp ngăn chặn, kể cả biện pháp phải gây ra thiệt hại khác. Tuy nhiên, biện pháp gây thiệt hại để ngăn chặn thiệt hại khác chỉ phù hợp với lợi ích xã hội và do vậy được coi là hợp pháp, khi không còn biện pháp khác (biện pháp không gây thiệt hại). Đây là điểm khác so với phòng vệ chính đáng.

Hành vi chống trả trong phòng vệ chính đáng thực chất là hành vi trực tiếp chống hành vi phạm tội cũng như hành vi vi phạm pháp luật và do vậy là cần thiết trong mọi trường hợp. Trong tình thế cấp thiết, lợi ích bị gây thiệt hại và lợi ích cần bảo vệ đều là lợi ích hợp pháp. Do vậy, khi còn biện pháp khác không gây thiệt hại mà vẫn có thể bảo vệ được lợi ích đang bị đe dọa thì việc gây thiệt hại là không cần thiết và hành động trong tình thế cấp thiết cũng không được đặt ra.

Như vậy, quyền được hành động trong tình thế cấp thiết chỉ phát sinh khi chỉ còn biện pháp phải gây thiệt hại để ngăn chặn thiệt hại khác. Nếu một người đã nhầm tưởng có cơ sở này mà trên thực tế không có và đã hành động trong tình thế cấp thiết thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết như trường hợp sai lầm.

b. Nội dung và phạm vi của quyền hành động trong tình thế cấp thiết 

Khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, người hành động được phép gây thiệt hại mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về việc gây thiệt hại này khi thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại được ngăn chặn. Việc gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp để bảo vệ lợi ích hợp pháp khác chỉ có ý nghĩa khi thiệt hại cần ngăn chặn lớn hơn. Sẽ là vô nghĩa khi ngăn chặn một thiệt hại bằng cách gây ra thiệt hại khác bằng hoặc lớn hơn.

Hành động trong tình thế cấp thiết là sự lựa chọn khi đứng trước xung đột lợi ích. Sự lựa chọn chỉ có ý nghĩa nên được xã hội và pháp luật chấp nhận khi lựa chọn lợi ích lớn hơn. 

Sự so sánh hai thiệt hại – thiệt hại gây ra và thiệt hại cần ngăn chặn được xét cả về tính chất và mức độ của thiệt hại. Thông thường, thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết là thiệt hại về tài sản. Ngoài ra, thiệt hại này cũng có thể là thiệt hại về sức khoẻ hoặc tự do của con người.

Như vậy, khi có cơ sở được hành động trong tình thế cấp thiết, mỗi công dân đều có thể được phép gây thiệt hại nhỏ hơn để ngăn chặn thiệt hại lớn hơn. 

2. Khoản 2 của điều luật xác định các dấu hiệu của trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết. 

Đây là trường hợp chủ thể có cơ sở để được hành động trong tình thế cấp thiết nhưng đã vượt quá phạm vi cho phép. Theo khoản 1 thì người hành động trong tình thế cấp thiết chỉ được phép gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Điều đó có nghĩa khi thiệt hại gây ra không nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa thì không còn là trường hợp tình thế cấp thiết.

Tuy nhiên, sự so sánh hai loại thiệt hại trong tình thế cấp thiết là vấn đề không đơn giản, dễ dàng và điều này càng khó khăn hơn đối với người đang đứng trước sự đe dọa gây thiệt hại mà phải lựa chọn biện pháp ngăn chặn sự đe dọa đó. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ coi việc gây thiệt hại là không hợp pháp khi thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu… và chủ thể có lỗi đối với việc vượt quá đó.

Trường hợp này tuy phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ vì tính chất của động cơ và vì hoàn cảnh phạm tội. Thể hiện điều này, BLHS quy định vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 51 BLHS). 

3. Tương tự như tình thế cấp thiết, luật hình sự một số quốc gia khác còn quy định một số trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự khác có tính chất tương tự như tình thế cấp thiết vì chủ thể cũng đứng trước sự xung đột lợi ích và đã chọn lợi ích lớn hơn. Đó là tình thế bị cưỡng bức tinh thần và tình thế xung đột nghĩa vụ. Trong đó: 

– Tình thế bị cưỡng bức tinh thần là trường hợp phải gây thiệt hại theo ý muốn của người đe dọa mà không còn cách nào khác để tránh thiệt hại lớn hơn mà người đe dọa sẽ gây ra nếu không thực hiện theo ý muốn đó; 

– Tình thế xung đột nghĩa vụ là trường hợp buộc phải vi phạm một nghĩa vụ để thực hiện nghĩa vụ khác có ý nghĩa lớn hơn. 

Cả hai trường hợp trên đây đều chưa được quy định trong BLHS. Nếu trong thực tế xảy ra trường hợp như vậy, có thể áp dụng tương tự điều luật này. 

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Phân tích hành vi phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật theo quy định của Bộ luật Hình sự

Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà phá hoại cơ sở vật chất ; kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học; kỹ thuật, văn hóa, xã hội, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử...

Bị lừa đảo chuyển khoản phải làm sao?

Vấn đề bị lừa đảo chuyển khoản là một vấn đề thường gặp trong cuộc sống hiện nay, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều vấn đề pháp luật như hành chính, hình sự, dân sự… và tác động đến nhiều đối tượng dưới những thủ đoạn tinh vi....

Đánh tráo trẻ em dưới 01 tuổi thì bị xử lý thế nào?

Người nào đánh tráo người dưới 01 tuổi này với người dưới 01 tuổi khác, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: Có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp; Đối với người dưới 01 tuổi mà mình có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng; Phạm tội 02 lần trở...

Hình phạt của tội trộm cắp tài sản như thế nào?

Chú tôi có tiền án về tội trộm cắp tài sản. Gần đây lại trộm cắp tài sản của người khác. Xin hỏi luật sư chú tôi sẽ bị phạt tù bao nhiêu...

Tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định Bộ luật hình sự năm 2025?

Cưỡng đoạt tài sản, được hiểu là hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của...

Xem thêm