Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Quy định về Các hình phạt đối với người phạm tội
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 497 Lượt xem

Quy định về Các hình phạt đối với người phạm tội

Điều 32 BLHS quy định hệ thống hình phạt gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung được áp dụng đối với người phạm tội, đó là tổng thể các loại hình phạt do Nhà nước quy định trong BLHS có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo một trật tự nhất định.

Các hình phạt đối với người phạm tội là gì?

Điều 32. Các hình phạt đối với người phạm tội

1. Hình phạt chính bao gồm: 

a) Cảnh cáo, 

b) Phạt tiền, 

c) Cải tạo không giam giữ

d) Trục xuất, 

đ) Tù có thời hạn; 

e) Tù chung thân; 

g) Tử hình.

2. Hình phạt bổ sung bao gồm: 

a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, 

b) Cấm cư trú;

c) Quản chế;

d) Tược một số quyền công dân;

đ) Tịch thu tài sản;

e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;

g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.

3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. 

Bình luận về các hình phạt đối với người phạm tội theo Bộ luật hình sự

Điều luật quy định hệ thống hình phạt gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung được áp dụng đối với người phạm tội, đó là tổng thể các loại hình phạt do Nhà nước quy định trong BLHS có sự liên kết chặt chẽ với nhau theo một trật tự nhất định. 

Như vậy, hệ thống hình phạt đối với người phạm tội là tập hợp những hình phạt được quy định trong luật hình sự, có phương thức liên kết với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất. Các yếu tố, các đơn vị cấu thành hệ thống hình phạt là những loại hình phạt cụ thể với nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng khác nhau. Số lượng các hình phạt trong hệ thống hình phạt ở mỗi quốc gia cũng như ở từng giai đoạn lịch sử của một quốc gia là khác nhau. 

Hệ thống hình phạt đối với người phạm tội trong BLHS được phân chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính và hình phạt bổ sung được phân biệt chủ yếu dựa vào vị trí, vai trò và khả năng tác động khác nhau đối với tội phạm. 

Từ liệt kê của điều luật có thể thấy các hình phạt trong hệ thống hình phạt rất đa dạng để phù hợp với sự đa dạng của các loại tội phạm cũng như các trường hợp phạm tội. Sự đa dạng các hình phạt trong hệ thống hình phạt là điều kiện đảm bảo cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt. Các hình phạt trong hệ thống hình phạt không chỉ đa dạng mà còn được sắp xếp theo trật tự từ hình phạt nhẹ nhất đến hình phạt nặng nhất. 

Việc nhà làm luật xây dựng một hệ thống nhiều hình phạt với nội dung cưỡng chế, thuyết phục, giáo dục nặng, nhẹ khác nhau là cần thiết bởi vì việc đa dạng hóa hệ thống hình phạt phù hợp với quan điểm tiến bộ trong chính sách hình sự của Nhà nước, thể hiện các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với sự phong phú, đa dạng các loại tội phạm trong xã hội.

Sự đa dạng các hình phạt trong hệ thống hình phạt là điều kiện bảo đảm tính thống nhất trong thực tiễn xét xử của các Tòa án, đảm bảo cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt được thuận lợi, chính xác, đảm bảo cho việc xét xử được công bằng, bình đẳng và hợp lý.

Trên cơ sở những quy định chung về hình phạt trong phần những quy định chung của BLHS và căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm cũng như yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa từng loại tội phạm, nhà làm luật quy định hình phạt chính (và có thể cả hình phạt bổ sung) cho từng loại tội phạm cụ thể ở Phần các tội phạm của BLHS. 

Trong hoạt động xét xử, Tòa án chỉ được phép áp dụng các hình phạt được quy định tại Điều 32 BLHS và khi áp dụng hình phạt Tòa án không chỉ căn cứ vào các điều khoản về tội phạm cụ thể mà còn phải tôn trọng nội dung, điều kiện và phạm vi áp dụng của từng loại hình phạt, cũng như các nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt được xác định rõ trong Phần những quy định chung của BLHS. 

1. Khoản 1 của điều luật xác định các hình phạt chính trong hệ thống hình phạt đối với người phạm tội. Theo đó, hình phạt chính đối với người phạm tội bao gồm: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân và tử hình.

Hình phạt chính là một bộ phận của hệ thống hình phạt cùng với bộ phận thứ hai là hình phạt bổ sung. Ngoài đặc điểm chung của hình phạt được xác định tại Điều 30 BLHS, hình phạt chính có những đặc điểm (dấu hiệu riêng sau: 

Thứ nhất, hình phạt chính được quy định và áp dụng độc lập cho tất cả các loại tội phạm được quy định trong BLHS. Hình phạt chính, trước hết là loại hình phạt được quy định cho tất cả các tội phạm đã được xác định trong BLHS. Loại hình phạt này đòi hỏi phải được áp dụng cho tất cả các trường hợp phạm tội mà không được miễn hình phạt và được áp dụng độc lập cho mỗi tội phạm cụ thể, không phụ thuộc vào hình phạt bổ sung.

Sở dĩ hình phạt chính có tính chất như vậy là do hình phạt này luôn chứa đựng nội dung trừng trị và giáo dục, cải tạo hay nói cách khác, hình phạt chính về cơ bản tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, phản ánh đầy đủ sự phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm. Khi nhân danh Nhà nước tuyên bố bản án đối với người phạm tội, Tòa án chỉ có thể lựa chọn một hình phạt chính với mức độ xử phạt nhất định đối với một tội phạm cụ thể mà điều luật về tội phạm ấy có quy định, không phụ thuộc vào hình phạt bổ sung hoặc biện pháp tư pháp.

Tính chất độc lập của hình phạt chính còn thể hiện ở chỗ các chế định khác trong luật hình sự, như: Phân loại tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành án, xóa án tích, vv. đều được xác định căn cứ vào loại và mức của hình phạt chính. 

Thứ hai, trong hệ thống hình phạt, các hình phạt chính được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Theo điều luật, các hình phạt chính được sắp xếp theo nguyên tắc từ hình phạt nhẹ đến hình phạt nặng. Việc sắp xếp các hình phạt chính theo trật tự nhất định không chỉ tạo ra tính hệ thống trong quy định về các hình phạt mà còn là căn cứ áp dụng khi việc áp dụng cần có sự so sánh giữa các hình phạt chính. Tính hệ thống của các hình phạt chính cho phép các hình phạt này có thể thay thế cho nhau khi có đủ điều kiện luật quy định. 

Thứ ba, các hình phạt chính có sự cân đối giữa 02 loại hình phạt là các hình phạt tước tự do và các hình phạt không tước tự do của người bị kết án. Trong đó, các hình phạt chính tước tự do là: tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình; các hình phạt chính không tước tự do là: cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất, cải tạo không giam giữ. 

Trong luật hình sự Việt Nam, các hình phạt tước tự do, nhất là hình phạt tù có thời hạn được coi là hình phạt “truyền thống”. Việc quy định các hình phạt không tước tự do như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ không chỉ đảm bảo thực hiện nguyên tắc nhân đạo, công bằng, phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt, bảo vệ quyền con người mà còn nhằm hạn chế hình phạt tù có thời hạn trong thực tiễn áp dụng. 

Thứ tư, tổng hợp hình phạt chung khác loại chỉ đặt ra với các hình phạt chính. Trong thực tế, việc phải tổng hợp các hình phạt khác loại có thể được đặt ra vì có thể có nhiều hình phạt khác loại được tuyên và việc chấp hành đòi hỏi phải tổng hợp các hình phạt này. Tuy nhiên, theo quy định, việc tổng hợp này chỉ được đặt ra đối với các loại hình phạt chính mà không được đặt ra đối với các loại hình phạt bổ sung.

2. Khoản 2 của điều luật xác định các hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt đối với người phạm tội. Theo đó, hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính và trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được BLHS quy định, do Tòa án áp dụng bổ sung cho hình phạt chính trong bản án kết tội đối với người bị kết án và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích nhất định của họ nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính và phòng ngừa tội phạm. 

Hình phạt bổ sung, ngoài những đặc điểm đặc trưng của hình phạt nói chung, còn có những đặc điểm riêng sau: 

Thứ nhất, hình phạt bổ sung không được áp dụng độc lập đối với mỗi tội phạm cụ thể mà chỉ được áp dụng bổ sung cho hình phạt chính và không được áp dụng với tất cả các loại tội phạm được quy định trong luật hình sự. Do nội dung trừng trị, giáo dục, cải tạo của hình phạt bổ sung về cơ bản không tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm như hình phạt chính nên hình phạt bổ sung, tự nó không có khả năng thể hiện đầy đủ sự phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm.

Do tính chất như vy, hình phạt bổ sung không được quy định đối với tất cả các tội phạm và cũng không được áp dụng độc lập mà chỉ có thể được áp dụng bổ sung kèm theo hình phạt chính trong những trường hợp nhất định. 

“Nếu xét về tổng thể thì mức độ nghiêm khắc của hình phạt bổ sung không lớn, do đó, việc áp dụng độc lập các loại hình phạt bổ sung hẳn sẽ không đạt được tác dụng mà hình phạt chính có thể đem lại. Vì vậy, để đạt được tác dụng và hiệu quả hình phạt bổ sung phải áp dụng kèm theo hình phạt chính”.

Với việc áp dụng kèm theo hình phạt chính, hình phạt bổ sung có tác dụng có thể củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính, giúp cho việc xử lý tội phạm được toàn diện và triệt để, tăng cường thêm tác dụng phòng ngừa riêng và răn đe chung của hình phạt chính. Do tính chất phụ thuộc của hình phạt bổ sung vào hình phạt chính, nên đối với trường hợp phạm tội cụ thể người phạm tội không bị áp dụng hình phạt chính (được miễn hình phạt) thì Tòa án cũng không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ.

Tòa án chỉ có thể áp dụng những hình phạt bổ sung cụ thể nếu điều luật về tội phạm có quy định. Trong trường hợp một người bị kết án về nhiều tội, thì hình phạt bổ sung của tội nào chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính của tội ấy, không tuyên hình phạt bổ sung một cách chung cho tất cả các tội. 

Thứ hai, trong hệ thống hình phạt, các hình phạt bổ sung không được sắp xếp theo một trật tự nhất định như các hình phạt chính. Trong hệ thống hình phạt, do tính chất và vai trò đặc thù nên các hình phạt chính được quy định có tính hệ thống, liên kết chặt chẽ với nhau, được sắp xếp theo một trật tự nhất định.

Trái lại, các hình phạt bổ sung tuy có mối liên kết chặt chẽ với hình phạt chính nhưng giữa chúng lại không có thể liên kết với nhau theo một trật tự có hệ thống như là hình phạt chính. Thực tế, rất khó có thể đánh giá, so sánh được hình phạt bổ sung nào nặng hơn, nghiêm khắc hơn hình phạt bổ sung 

nào vì các hình phạt bổ sung có nội dung trừng trị, giáo dục, cải tạo rất khác nhau, mỗi loại hình phạt bổ sung chỉ có khả năng tác động riêng rẽ và có hiệu quả đối với một số loại tội phạm cụ thể và nó cũng chỉ có thể được quy định và áp dụng kèm theo một hoặc một số loại hình phạt chính nhất định. Do đó, các hình phạt bổ sung không có khả năng thay thế cho nhau và cũng vì thế mà Điều 54 BLHS quy định về việc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn chỉ được giới hạn cho các hình phạt chính. 

Thứ ba, trong hệ thống hình phạt, các hình phạt bổ sung là những hình phạt không tước quyền tự do thân thể của người bị kết án. Hình phạt bổ sung đều là các biện pháp cưỡng chế hình sự không tước quyền tự do thân thể, không buộc phải cách ly người bị kết án khỏi đời sống xã hội, vì thế, nhìn chung hình phạt bổ sung là ít nghiêm khắc hơn hình phạt chính, nhất là so sánh hình phạt bổ sung với các hình phạt chính tước tự do (tù có thời hạn, chung thân, tử hình).

Nhận thức đúng đắn về đặc điểm này của hình phạt bổ sung có ý nghĩa quan trọng định hướng cho việc quy định và áp dụng hình phạt bổ sung, phát huy được tác dụng tăng cường, hỗ trợ cho hình phạt chính và phòng ngừa có hiệu quả tội phạm. Khi quy định hình phạt bổ sung cụ thể kèm theo hình phạt chính đối với mỗi tội phạm cụ thể, nhà làm luật phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo tính tương xứng về mức độ nghiêm khắc giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung, tránh tình trạng hình phạt bổ sung được quy định nghiêm khắc hơn hình phạt chính mà nó được áp dụng kèm theo.

Tương tự như vậy, khi quyết định hình phạt bổ sung, cũng cần cân nhắc tình hình cụ thể của vụ án để đảm bảo tăng cường được hiệu quả của hình phạt bổ sung, đảm bảo được sự phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt. 

Thứ tư, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính đối với mỗi tội phạm cụ thể. Với tính chất là loại hình phạt áp dụng bổ sung cho hình phạt chính, hình phạt bổ sung tuy không được quy định và áp dụng đối với tất cả các tội phạm mà chỉ được áp dụng đối với một số tội phạm nhất định nhưng khi được áp dụng, Tòa án lại có thể áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung theo quy định của BLHS. 

Thứ năm, hình phạt bổ sung được quy định dưới dạng bắt buộc áp dụng hoặc có thể áp dụng. Việc áp dụng hình phạt bổ sung có thể ở dạng bắt buộc hoặc có thể (tùy nghi) cũng là một trong những đặc điểm riêng của hình phạt bổ sung. Quy định hai cách thức áp dụng hình phạt bổ sung này giúp cho việc thực hiện một cách triệt để nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt.

Việc quy định hình phạt bổ sung là bắt buộc hay tùy nghi phụ thuộc vào từng loại tội phạm cụ thể. Có loại tội phạm được quy định bắt buộc phải áp dụng hình phạt bổ sung, có loại tội phạm được quy định có thể áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung. 

Trong trường hợp điều luật về tội phạm cụ thể quy định cho phép áp dụng hình phạt bổ sung, Tòa án phải lựa chọn áp dụng hay không áp dụng hình phạt bổ sung. Cụ thể: Tòa án cần phải cân nhắc các tình tiết của vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm nhấn thân người phạm tội và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định có áp dụng hay không áp dụng hình phạt bổ sung. 

Đối với các trường hợp luật quy định việc áp dụng hình phạt bổ sung là bắt buộc, Tòa án phải áp dụng hình phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính. Khi quyết định hình phạt bổ sung Tòa án vẫn phải xem xét, đánh giá toàn diện các tình tiết của vụ án, nhân thân người bị kết án để quyết định mức hình phạt bổ sung cụ thể, trong giới hạn tối thiểu và tối đa luật định.

3. Khoản 3 của điều luật quy định về sự khác nhau trong áp dụng hình phạt chính và hình phạt bổ sung như đã trình bày trên. Theo đó, có hai khác biệt khi quyết định hình phạt đối với người bị kết án: 

– Đối với mỗi tội phạm, Tòa án chỉ được áp dụng với người phạm tội một hình phạt chính. Điều này có nghĩa, khi khung hình phạt cho tội phạm chỉ quy định một loại hình phạt chính thì Tòa án phải áp dụng hình phạt này còn khi khung hình phạt quy định nhiều hình phạt chính khác nhau để lựa chọn thì Tòa án chỉ được lựa chọn một hình phạt chính trong số đó. 

– Đối với mỗi tội phạm, Tòa án quyết định một hình phạt chính độc lập và phải quyết định hoặc có thể quyết định kèm theo hình phạt chính đó một hoặc nhiều hình phạt bổ sung tùy thuộc vào quy định cụ thể của điều luật về hình phạt bổ sung đối với tội phạm đó. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (6 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi