Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Khi nào được miễn chấp hành hình phạt theo Bộ luật Hình sự?
  • Thứ tư, 06/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 396 Lượt xem

Khi nào được miễn chấp hành hình phạt theo Bộ luật Hình sự?

Miễn chấp hành hình phạt được đặt ra trong trường hợp không thực sự cần thiết buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc một phần hình phạt đã tuyên.

Quy định của BLHS về miễn chấp hành hình phạt

Điều 62. Miễn chấp hành hình phạt

1. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.

2. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Sau khi bị kết án đã lập công,

b) Mắc bệnh hiểm nghèo, 

c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. 

3. Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.

4. Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. 

5. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại. 

6. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

7. Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều này vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án. 

Phân tích về miễn chấp hành hình phạt theo quy định của BLHS

Điều luật quy định về các trường hợp được miễn chấp hành hình phạt. Chấp hành hình phạt là một khâu trong quá trình thực hiện trách nhiệm hình sự để đạt được mục đích của trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình thực hiện trách nhiệm hình sự nói chung cũng như trong việc chấp hành hình phạt nói riêng, vấn đề xác định sự cần thiết của việc thực hiện trách nhiệm hình sự để đạt được mục đích của nó luôn được đặt ra.

Do đó, BLHS quy định một loạt các chế định trong đó có chế định miễn chấp hành hình phạt để buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải kiểm tra tính cần thiết của việc thực hiện trách nhiệm hình sự ở từng khâu đối với việc đạt được mục đích của trách nhiệm hình sự.

Miễn chấp hành hình phạt được đặt ra trong trường hợp không thực sự cần thiết buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc một phần hình phạt đã tuyên.

Lý do của sự không cần thiết này có thể xuất phát từ hoàn cảnh, từ những cố gắng chuộc lỗi, tự giáo dục, cải tạo của người bị kết án… nhưng đều phản ánh người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc không có nguy cơ phạm tội lại, mặc dù họ chưa chấp hành hoặc mới chấp hành được một phần hình phạt. 

Quy định về miễn chấp hành hình phạt có thể được coi là một trong những cơ sở pháp lý đảm bảo cho tính thiết thực của việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời cũng thể hiện chính sách nhân đạo đối với người bị kết án có hoàn cảnh đặc biệt và thái độ khuyến khích.

Ví dụ như chế định miễn trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, người bị kết án cố gắng lập công chuộc tội để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước. 

Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc một phần (phần còn lại chưa chấp hành hình phạt đã tuyên nếu họ thỏa mãn các điều kiện luật định.

Theo đó, BLHS quy định hai loại trường hợp được miễn chấp hành hình phạt. Khoản 1 của điều luật quy định trường hợp được miễn chấp hành hình phạt khi người bị kết án được đặc xá hoặc đại xá. 

Đặc xá và đại xá là hai biện pháp khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội. Trong đó, đặc xá là biện pháp khoan hồng thuộc quyền của Chủ tịch nước còn đại xá là biện pháp thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Đặc xá là biện pháp khoan hồng đối với cá nhân người bị kết án nhất định hoặc đối với những người bị kết án thỏa mãn điều kiện nhất định. Trong khi đó, đại xá là biện pháp khoan hồng đối với tất cả những người đã phạm tội nhất định. Đặc xá được quyết định thường xuyên hơn nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn còn đại xá được quyết định rất hạn chế.

Người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đã chấp hành được một phần hình phạt nếu được đặc xá hoặc đại xá thì sẽ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt chưa chấp hành từ thời điểm có quyết định đặc xá hoặc đại xá. 

Khoản 2 của điều luật quy định về miễn chấp hành (toàn bộ) hình phạt đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù có thời hạn đến 03 năm.

Theo đó, điều kiện được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù có thời hạn đến 03 năm bao gồm: 

– Điều kiện về thời điểm xét miễn: Người bị kết án chưa chấp hành hình phạt; 

– Điều kiện về nội dung: Người bị kết án thuộc một trong các trường hợp sau: 

+ Sau khi bị kết án đã lập công: Đây là trường hợp người bị kết án đã có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, công tác, chiến đấu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định khen thưởng hoặc xác nhận.

+ Mắc bệnh hiểm nghèo: Là trường hợp người bị kết án đang bị những căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị như ung thư giai đoạn cuối.

Xơ gan cổ chướng, lao năng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.

+ Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội là trường hợp người bị kết án đã hoàn lương, chấp hành đúng quy định pháp luật, chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào thi đua của địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của bản án.

– Điều kiện về hình thức: Phải có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát bằng văn bản cho miễn chấp hành (toàn bộ) hình phạt.

Khoản 3 của điều luật quy định về miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm.

Theo đó, điều kiện được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm bao gồm: 

– Điều kiện về thời điểm xét miễn: Người bị kết án chưa chấp hành hình phạt; 

– Điều kiện về nội dung: Người bị kết án thuộc một trong hai trường hợp sau: 

+ Đã lập công lớn: Đây là trường hợp người bị kết án đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm;

Cứu giúp người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản (có giá trị từ 30 triệu đồng trở lên) của Nhà nước, tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận.

+ Mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (xem giải thích về nội dung của trường hợp này trong điểm 2 – miễn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù có thời hạn đến 03 năm). 

– Điều kiện về hình thức: Phải có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát bằng văn bản cho miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. 

Như vậy, miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người bị kết án phạt tù trên 03 năm đòi hỏi điều kiện về nội dung “khó hơn” so với điều kiện về nội dung của trường hợp miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc bị phạt tù có thời hạn đến 03 năm.

Đó là điều kiện đòi hỏi người bị kết án phạt tù trên 03 năm: Đã lập công lớn (mà không chỉ là lập công) hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (cả hai điều kiện mà không phải một trong hai).

Quy định về điều kiện như vậy là tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và sự ăn năn, hối lỗi và quyết tâm lập công chuộc tội của người bị kết án trong trường hợp này. 

Khoản 4 của điều luật quy định về miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với người bị kết án phạt tù đến 03 năm đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt. Theo đó, miễn chấp hành phần hình phạt còn lại được hiểu là miễn chấp hành phần hình phạt tù chưa được chấp hành tại thời điểm được xét miễn.

Điều kiện được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với người bị kết án phạt tù đến 03 năm đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt bao gồm: 

– Điều kiện về thời điểm xét miễn: Người bị kết án phạt tù đến 03 năm đang trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; 

– Điều kiện về nội dung: Người bị kết án thuộc một trong hai trường hợp sau: 

+ Đã lập công;

+ Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

– Điều kiện về hình thức: Phải có đề nghị bằng văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát. 

Khoản 5 của điều luật quy định về miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với người bị kết án phạt tiền.

Theo đó, miễn chấp hành phần hình phạt còn lại được hiểu là miễn chấp hành phần hình phạt tiền chưa được chấp hành đối với người bị kết án phạt tiền. Điều kiện được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với người bị kết án phạt tiền bao gồm: 

– Điều kiện về thời điểm xét miễn: Người bị kết án đã chấp hành được một phần hình phạt tiền; 

– Điều kiện về nội dung: Người bị kết án đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt tiền và thuộc một trong hai trường hợp sau: 

+ Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc đau ốm gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt tiền còn lại; 

+ Lập công lớn

– Điều kiện về hình thức: Phải có đề nghị bằng văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát về việc miễn chấp hành phần hình phạt tiền còn lại. 

Khoản 6 của điều luật quy định về miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế.

Theo đó, miễn chấp hành phần hình phạt còn lại được hiểu là miễn chấp hành một phần hai thời hạn của hình phạt cấm cư trú hoặc quản chế mà chưa được chấp hành.

Điều kiện được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế bao gồm: 

– Điều kiện về thời điểm xét miễn: Người bị kết án đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt; 

– Điều kiện về nội dung: Người bị kết án cải tạo tốt; cải tạo tốt được chứng minh bằng việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thành thực hối cải, tích cực lao động, học tập.

– Điều kiện về hình thức: Phải có đề nghị bằng văn bản của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người bị kết án chấp hành hình phạt về việc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại (của hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú). 

Khoản 7 của điều luật xác định nghĩa vụ dân sự của người được miễn chấp hành hình phạt. Theo đó, người được miễn chấp hành hình phạt trong tất cả các trường hợp nêu trên vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án.

Trên đây là nội dung bài viết Khi nào được miễn chấp hành hình phạt theo Bộ luật Hình sự? của Công ty Luật Hoàng Phi, cảm ơn Quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của chúng tôi.

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi