Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Hình phạt cảnh cáo theo Bộ luật hình sự mới nhất
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 1094 Lượt xem

Hình phạt cảnh cáo theo Bộ luật hình sự mới nhất

Điều 34 BLHS quy định điều kiện và phạm vi áp dụng của hình phạt cảnh cáo là loại hình phạt đối với người phạm tội. Cảnh cáo là hình phạt chính có nội dung cưỡng chế ít nghiêm khắc nhất so với các hình phạt chính khác được quy định trong BLHS.

Quy định về hình phạt cảnh cáo theo Bộ luật hình sự

Điều 34 Bộ luật hình sự quy định về hình phạt cảnh cáo như sau:

Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. 

Bình luận về hình phạt cảnh cáo theo Bộ luật hình sự mới nhất

Điều luật quy định điều kiện và phạm vi áp dụng của hình phạt cảnh cáo là loại hình phạt đối với người phạm tội. Cảnh cáo là hình phạt chính có nội dung cưỡng chế ít nghiêm khắc nhất so với các hình phạt chính khác được quy định trong BLHS.

Cảnh cáo được áp dụng không nhằm trực tiếp hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án như quyền tự do, quyền sở hữu tài sản, quyền sống… mà nó là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án quyết định áp dụng đối với người bị kết án.

Với nội dung thể hiện việc Tòa án tuyên bản án buộc tội và thay mặt Nhà nước khiển trách công khai người phạm tội, cảnh cáo gây cho họ những tổn thất nhất định về tinh thần, người bị kết án đã phải chịu sự lên án của Nhà nước về hành vi phạm tội đã thực hiện. Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên (Điều 71 Luật thi hành án hình sự). 

So với cảnh cáo là hình thức xử phạt hành chính thì về nội dung hình phạt cảnh cáo có tính chất nghiêm khắc hơn hẳn. Kèm theo hình phạt cảnh cáo luôn luôn có hậu quả pháp lý là án tích. Người bị kết án sẽ phải mang án tích trong thời hạn thông thường là một năm (điểm a khoản 2 Điều 70 BLHS). Người bị kết án được xóa án tích nếu từ ngày chấp hành xong bản án hoặc kể từ khi việc thi hành bản án đã quá thời hiệu và người đó không phạm tội mới trong thời hạn nói trên. 

Theo điều luật, cảnh cáo được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau: 

– Tội phạm mà người bị kết án thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng (tội gây nguy hại không lớn cho xã hội nên loại hình phạt nặng nhất được quy định trong khung hình phạt là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc mức hình phạt tù cao nhất được quy định trong khung hình phạt là bằng hoặc dưới 03 năm tù); 

– Trường hợp phạm tội của người bị kết án có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên được quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 51 BLHS; và 

– Người bị kết án chưa đến mức được miễn hình phạt theo Điều 59 BLHS. 

Trong thực tiễn xét xử, hình phạt cảnh cáo được Tòa án áp dụng rất hạn chế, chỉ áp dụng với những tội ít nghiêm trọng mà điều luật về tội phạm có quy định hình phạt này và phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: hậu quả tác hại chưa xảy ra hoặc người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu, người phạm tội là người dân lao động, nhất thời phạm tội, nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự…

Trong trường hợp này, người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng để miễn hình phạt hoặc xử lý bằng hình thức khác thì quá nhẹ, không đáp ứng yêu cầu giáo dục, cải tạo người phạm tội và thực hiện phòng ngừa chung, nhưng nếu áp dụng các hình phạt chính khác nặng hơn thì chưa cần thiết. Đối với những người này Tòa án tuyên phạt hình phạt cảnh cáo là đủ để họ nhận thức được sai lầm mà tự mình sửa chữa. 

Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, việc lựa chọn giữa hai khả năng miễn hình phạt và áp dụng hình phạt cảnh cáo trong trường hợp người phạm tội phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ là rất khó khăn, bởi ranh giới áp dụng giữa hai khả năng xử lý này đối với người phạm tội là không lớn. Vì vậy, đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc, đánh giá thật đầy đủ, toàn diện mọi tình tiết liên quan đến vụ án để cân nhắc đưa ra quyết định phù hợp, đảm bảo hiệu quả của biện pháp được áp dụng. 

Hình phạt cảnh cáo trong thực tiễn ít được áp dụng so với các hình phạt chính khác là do còn những tồn tại nhất định, như quy định về phạm vi áp dụng còn hạn chế, tính cưỡng chế, tác dụng phòng ngừa, giáo dục của hình phạt này không cao, điều kiện áp dụng không được quy định rõ ràng… Tuy vậy, nhà làm luật vẫn giữ hình phạt này trong hệ thống hình phạt của BLHS năm 2015, vì nó “vẫn để lại án tích nên vẫn có tác dụng răn đe, phòng ngừa nhất định.

Việc duy trì hình phạt này góp phần bảo đảm định hướng giảm hình phạt tù”. Mặt khác, hình phạt này còn giữ vị trí trung gian giữa phạt tiền với miễn hình phạt, đảm bảo cho hệ thống hình phạt có được tính thống nhất nội tại của nó. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (10 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi