Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội theo Bộ luật hình sự mới nhất
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 845 Lượt xem

Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội theo Bộ luật hình sự mới nhất

Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

Quy định về gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

Điều 24 Bộ luật hình sự quy định về Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội như sau:

1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Bình luận về Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội theo Bộ luật hình sự

Bắt giữ người phạm tội bằng cách sử dụng vũ lực, gây thiệt hại cho họ là hành vi phù hợp với lợi ích xã hội về việc làm này không chỉ giúp cơ quan nhà nước có điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội mà còn có tác dụng phòng ngừa họ phạm tội lại. Do vậy, BLHS năm 2015 đã được bổ sung căn cứ hợp pháp này. 

1. Khoản 1 của điều luật xác định các dấu hiệu của trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội và khẳng định trường hợp này không phải là tội phạm. Theo đó, trường hợp này có các dấu hiệu sau:

a. Cơ sở cho phép gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội 

Cơ sở cho phép gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là có “người thực hiện tội phạm” và được phép bắt giữ. Như vậy, việc cho phép này phát sinh khi có quyền bắt giữ người thực hiện tội phạm. Chỉ khi có quyền bắt giữ người thực hiện tội phạm thì vấn đề cho phép gây thiệt hại cho người bị bắt giữ mới được đặt ra. Để xác định quyền này phải dựa vào các quy định của pháp luật. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định rõ các chủ thể có quyền bắt người trong tố tụng hình sự.

Trong đó, Bộ luật xác định chủ thể là người dân chỉ có quyền bắt người trong hai trường hợp. Đó là bắt “… người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt …” (Bắt người phạm tội quả tang – Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự và Bắt người đang bị truy nã – Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự).

b. Nội dung và phạm vi của sự cho phép gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội 

Khi có quyền bắt người thực hiện tội phạm, người thực hiện quyền này được phép sử dụng vũ lực để bắt và khi sử dụng vũ lực có thể gây thiệt hại cho người bị bắt. Việc gây thiệt hại này là cho phép, là hợp pháp. Tuy nhiên, sự cho phép này là có giới hạn. Cụ thể, phạm vi cho phép sử dụng vũ lực, gây thiệt hại cho người bị bắt được xác định bởi hai điều kiện: 

– Việc phải sử dụng vũ lực là cách duy nhất để có thể bắt được người thực hiện tội phạm; và 

– Việc sử dụng vũ lực phải trong mức độ cần thiết cho việc bắt người đó. 

Để kiểm tra 2 điều kiện trên đây cần đánh giá trước hết mối tương quan giữa sự chống trả việc bắt giữ của người bị bắt giữ và khả năng bắt giữ của người bắt giữ đặt trong hoàn cảnh cụ thể. 

2. Khoản 2 Điều 23 BLHS quy định, trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Đây là trường hợp người bắt giữ đã sử dụng vũ lực để bắt giữ vượt ra khỏi phạm vi cho phép. Việc sử dụng vũ lực rõ ràng là quá mức cần thiết cho việc bắt giữ. Do vậy, hành vi gây thiệt hại cho người bị bắt giữ do sử dụng vũ lực không còn là hợp pháp. Người gây thiệt hại | này phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS tương tự như trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (6 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi