• Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 845 Lượt xem

Có mấy loại tội phạm?

Các loại (nhóm) tội phạm được phân biệt với nhau bởi dấu hiệu về nội dung và dấu hiệu về hậu quả pháp lý Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 đã bổ sung nội dung tại Điều 9 và xây dựng Điều luật này gồm 2 khoản.

Quy định của Bộ luật hình sự về phân loại tội phạm

Điều 9. Phân loại tội phạm

1.Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: 

a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; 

b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 13 năm tù đến 07 năm tù; 

c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; 

d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này. 

Tư vấn về phân loại tội phạm theo quy định hiện hành

Khi BLHS năm 2015 được ban hành, Điều 9 chưa được chia thành 2 khoản. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 đã bổ sung nội dung tại Điều 9 và xây dựng Điều luật này gồm 2 khoản. Trong đó, nội dung của Điều 9 trước khi được sửa đổi, bổ sung được xây dựng thành khoản 1 và khoản 2 là nội dung được bổ sung. 

Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Do sự khác nhau như vậy mà vấn đề phân hoá và cá thể hoá trách nhiệm hình sự được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam.

Trước hết đòi hỏi phải có sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật và sự phân hoá này là cơ sở để có thể có thể hoá trách nhiệm hình sự trong áp dụng. Thể hiện nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, BLHS năm 2015 tiếp tục phân tội phạm thành bốn nhóm tội phạm khác nhau:

Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sự phân hoá thành bốn nhóm tội phạm như vậy vừa là biểu hiện cơ bản của sự phân hoá trách nhiệm hình sự vừa là cơ sở thống nhất cho sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong BLHS.

Sự phân hoá này là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình phạt cho các tội phạm cụ thể cũng như cho việc xây dựng trong luật hình sự và trong các ngành luật khác có liên quan các quy định thể hiện sự phân hoá trong chống các loại tội phạm khác nhau.

Đó là những căn cứ pháp lý thống nhất để các chủ thể áp dụng pháp luật thực hiện nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự khi áp dụng luật hình sự. 

Theo Điều 9 BLHS, căn cứ phân loại tội phạm là “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”. Đó chính là mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, Điều 9 phân chia tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thành 4 mức khác nhau và mỗi mức tương ứng với một loại (nhóm) tội phạm.

Các loại (nhóm) tội phạm được phân biệt với nhau bởi dấu hiệu về nội dung và dấu hiệu về hậu quả pháp lý. Nếu như tội phạm nói chung có dấu hiệu về nội dung là tính nguy hiểm cho xã hội và dấu hiệu về hậu quả pháp lý là tính phải chịu hình phạt thì các loại (nhóm) tội phạm cũng có những dấu hiệu đó, vì đều là tội phạm nhưng với những nội dung cụ thể khác nhau.

Mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội được cụ thể hoá là: 

– Không lớn (tội phạm ít nghiêm trọng); 

Trước khi có BLHS năm 1999, trong luật hình sự Việt Nam, tội phạm mới chỉ được phân thành hai loại: Tội phạm nghiêm trọng và tội phạm ít nghiêm trọng. Việc phân thành bốn loại tội phạm là bước phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật cao hơn. 

– Lớn (tội phạm nghiêm trọng); 

– Rất lớn (tội phạm rất nghiêm trọng);  

– Đặc biệt lớn (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). 

Tương ứng và phù hợp với bốn mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội đã được phân hoá như vậy có bốn mức độ cao nhất của khung hình phạt: 

– Phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;

– Phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm; 

– Phạt tù từ trên 07 năm đến 15 năm; và 

– Phạt tù trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 

Trong hai dấu hiệu phân biệt các loại (nhóm tội phạm này với nhau, dấu hiệu về nội dung quyết định dấu hiệu về hậu quả pháp lý.

Sự xác định dấu hiệu về hậu quả pháp lý thể hiện ở mức cao nhất của khung hình phạt chỉ là kết quả đánh giá của cơ quan xây dựng luật về sự cần thiết phải áp dụng các mức hình phạt khác nhau đối với những hành vi phạm tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau.

Nhưng khi đã được xác định, khung hình phạt trở thành dấu hiệu có tính độc lập tương đối để phân biệt các loại tội phạm với nhau, không phụ thuộc vào mức hình phạt cụ thể được áp dụng. 

Trong 02 dấu hiệu phân biệt giữa các loại tội phạm, dấu hiệu thứ nhất là tiêu chí để cơ quan xây dựng luật xem xét khi quy định các khung hình phạt và do vậy, dấu hiệu này có ý nghĩa đối với hoạt động lập pháp.

Trong khi đó, dấu hiệu thứ hai là dấu hiệu để người áp dụng xác định tội phạm thuộc khung hình phạt được áp dụng là loại tội phạm gì theo phân loại tại Điều 9 BLHS và do vậy dấu hiệu này có ý nghĩa đối với hoạt động áp dụng pháp luật. 

Trong áp dụng luật hình sự, việc xác định tội phạm đã thực hiện thuộc loại tội phạm nào có ý nghĩa đối với việc áp dụng nhiều quy định của BLHS như khoản 2 Điều 12; Điều 27

Ngoài ra, việc xác định này cũng có ý nghĩa đối với việc áp dụng một số quy định của các ngành luật có liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự như Luật tố tụng hình sự… 

Cách phân loại tội phạm trên đây giống như cách phân loại tội phạm trong BLHS năm 1999. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 diễn đạt dấu hiệu mức cao nhất của khung hình phạt cụ thể, rõ ràng hơn qua việc thể hiện cả mức cao nhất tối thiểu và mức cao nhất tối đa.

Ngoài ra, trong khi phân loại BLHS năm 2015 sử dụng thống nhất dấu hiệu “nguy hiểm cho xã hội cho tội phạm nói chung cũng như của từng loại tội phạm và chỉ bổ sung tính từ xác định mức độ của tính “nguy hiểm cho xã hội” ở mỗi loại tội phạm (không lớn; lớn, rất lớn và đặc biệt lớn).

Trước đó, BLHS năm 1999 sử dụng dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội ở tội phạm nói chung còn sử dụng dấu hiệu nguy hại cho xã hội khi phân loại tội phạm. 

Khoản 2 của điều luật là nội dung được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015.

Việc bổ sung này xuất phát từ quan niệm cho rằng có tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện nên phải có các quy định cho tội phạm này tương ứng với các quy định cho tội phạm do cá nhân thực hiện.

Theo đó, cần phải có quy định về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện bên cạnh quy định về phân loại tội phạm do cá nhân thực hiện. 

Khoản 2 tuy đưa ra nhiều thông tin về phân loại tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện nhưng các thông tin này trùng nhau, trong đó dấu hiệu “theo quy định tại khoản 1 Điều này đã bao trùm các dấu hiệu còn lại nên “không đưa ra được cách phân loại tội phạm riêng cho pháp nhân thương mại phạm tội như mục đích được đặt ra mà coi cách phân loại tội phạm tại khoản 1 được áp dụng chung cho cả cá nhân và pháp nhân thương mại…

Với việc bổ sung khoản 2 Điều 9, BLHS vẫn chỉ có một cách phân loại tội phạm như đã được quy định. Việc bổ sung chỉ mang tính hình thức, không mang lại sự thay đổi về nội dung…Khoản 2 có nội dung là phân loại tội phạm đối với pháp nhân thương mại phạm tội, trong khi đó, khoản 1 không xác định là phân loại tội phạm đối với cá nhân mà chỉ xác định là phân loại tội phạm.

Theo đó, khoản 1 đã bao hàm cả trường hợp được nói tại khoản 2. Do vậy, khoản 2 mới được bổ sung không đảm bảo tính logic. Khoản 2 chỉ có tính logic khi khoản 1 quy định về phân loại tội phạm đối với người phạm tội.”

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi