Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 405 Lượt xem

Quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn biện pháp xử lý trong đó có lựa chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại.

Các căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Điều 83. Căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội 

Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại. 

Nguyên tắc xử lý hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện

Nguyên tắc xử lý pháp nhân thương mại vi phạm như sau:

– Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;

– Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;

– Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;

– Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

Phân tích về căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội 

Điều luật quy định các căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại bị kết án. Theo đó, các căn cứ này bao gồm: 

– Các quy định của BLHS;

– Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;

– Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại; 

– Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại. 

Như vậy, các căn cứ quyết định hình phạt thứ nhất, thứ hai và thứ tư đối với pháp nhân thương mại tương ứng với các căn cứ quyết định hình phạt thứ nhất, thứ hai và thứ tư đối với cá nhân người phạm tội.

Căn cứ “việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại” tương ứng với căn cứ “nhân thân người phạm tội” là căn cứ quyết định hình phạt đối với cá nhân) người phạm tội.

Về nội dung của từng căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại tuy không được điều luật quy định cụ thể nhưng có thể xác định như sau: 

– Các quy định của Bộ luật hình sự 

Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS để lựa chọn biện pháp xử lý trong đó có lựa chọn loại và xác định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại.

Đó là những quy định liên quan đến cơ sở của trách nhiệm hình sự, nguyên tắc xử lý, điều kiện và phạm vi chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt, biện pháp tư pháp và quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại. Thuộc về những quy định này bao gồm: 

– Các quy định trong Phần thứ nhất

– Những quy định chung của BLHS: 

+ Quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 2 BLHS); 

+ Quy định về nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội (khoản 2 Điều 3 BLHS); 

+Quy định về các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 33 BLHS); 

+ Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội (từ Điều 74 đến Điều 88 BLHS), bao gồm: Quy định về áp dụng quy định của BLHS đối với pháp nhân thương mại (Điều 74 BLHS);

Quy định về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (Điều 75 BLHS); Quy định về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương mại (Điều 76 BLHS); Quy định cụ thể về từng hình phạt (chính và bổ sung) đối với pháp nhân thương mại (từ Điều 77 đến Điều 81 BLHS); Quy định về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 82 BLHS);

Quy định về căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 83 BLHS); Quy định về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại (Điều 84 và 85 BLHS);

Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội (Điều 88 BLHS); Quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 87 BLHS). 

– Các quy định trong Phần thứ hai

– Các tội phạm của BLHS về các tội phạm thuộc phạm vi quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (các điều luật được liệt kê tại Điều 76 BLHS). 

Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, Tòa án phải căn cứ vào các quy định nêu trên. Cụ thể: 

– Trước hết, Toà án dựa vào các quy định về điều kiện, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, về khung chế tài (hình phạt chính và hình phạt bổ sung) của từng tội phạm thuộc phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại,

Xác định trong trường hợp phạm tội cụ thể của cá nhân đã được định tội danh đã làm phát sinh trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và khung hình phạt cần áp dụng đối với pháp nhân thương mại. 

– Tiếp theo, Toà án dựa vào quy định về các căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại quyết định loại và mức hình phạt cụ thể trong khung quy định áp dụng đối với pháp nhân thương mại.

Trong nhiều trường hợp, Tòa án còn phải quyết định áp dụng hình phạt bổ sung hoặc biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại. 

Việc xác định các quy định của Bộ luật này” là căn cứ đầu tiên của quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại được xem như sự đảm bảo để thực hiện nguyên tắc pháp chế trong quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại. 

– Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội 

Khi quyết định hình phạt cho pháp nhân thương mại, Tòa án cũng phải căn cứ vào tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của tội phạm thuộc phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và pháp nhân thương mại có đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đó).

Điều này cũng có nghĩa là phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do (cá nhân) người phạm tội thực hiện mà về tội phạm này có đủ các điều kiện theo các điều 75 và 76 BLHS để buộc pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, trong trường hợp pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự thì căn cứ chung của quyết định hình phạt đối với người phạm tội và đối với pháp nhân thương mại đều là tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của tội phạm được mô tả trong CTTP cụ thể. 

Các khung chế tài cho người thực hiện tội phạm cũng như cho pháp nhân thương mại được xây dựng dựa trên căn cứ chủ yếu là tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nhưng khi quyết định hình phạt cụ thể trong phạm vi khung chế tài được quy định cho pháp nhân thương mại, Tòa án vẫn phải cân nhắc tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.

Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về nhiều tội phạm.

Hình phạt cụ thể được quyết định mặc dù chỉ trong phạm vi khung chế tài cho phép nhưng phải tương xứng với tính chất nguy hiểm của từng tội phạm trong sự so sánh với những tội phạm khác.

Có như vậy mới đảm bảo được tính thống nhất trong quyết định hình phạt đối với các hành vi phạm tội thuộc phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. 

Cân nhắc mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại sẽ đảm bảo được tính thống nhất và sự công bằng trong quyết định hình phạt đối với các trường hợp phạm tội khác nhau của mỗi loại tội thuộc phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

Vì quyết định hình phạt là quyết định trong phạm vi khung hình phạt cho phép nên quyết định hình phạt chủ yếu căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Mức độ đó phụ thuộc trước hết vào những yếu tố như tính chất của hành vi phạm tội; tính chất và mức độ của hậu quả; mức độ lỗi; hoàn cảnh phạm tội… 

– Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại 

Khi quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại, Tòa án còn phải căn cứ vào việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại trong cả quá trình từ trước đến sau khi bị coi là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.

Xem xét việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại nhằm chủ yếu xác định khả năng đạt được mục đích của hình phạt cũng như của các biện pháp xử lý khác đối với pháp nhân thương mại. 

– Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại 

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại là những tình tiết đã được quy định cụ thể tại Điều 84 và Điều 85 BLHS. Các tình tiết đó có thể được phân ra hai nhóm khác nhau: 

– Các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (làm giảm xuống hoặc tăng lên đáng kể); 

– Các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục của pháp nhân thương mại. 

Về tính chất pháp lý của các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại, cần chú ý: 

– Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại bao gồm những tình tiết được quy định tại Điều 84 BLHS và những tình tiết khác được Tòa án xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần được cân nhắc khi quyết định hình phạt cho pháp nhân thương mại. 

– Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại chỉ có thể là những tình tiết đã được quy định tại Điều 85 BLHS. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi