Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định 
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 1573 Lượt xem

Tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định 

Trong thời hạn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, người chấp hành án có nghĩa vụ: Báo cáo về chức vụ, nghề hoặc công việc bị cấm đảm nhiệm cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc…

 

Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi nào?

Tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội.  

Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

Điều luật quy định cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là hình phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình phạt chính với nội dung là không cho phép họ đảm nhiệm chức vụ, làm nghề hoặc công việc nhất định sau khi chấp hành xong hình phạt chính nhằm mục đích củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính cũng như để ngăn ngừa họ lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc đó để tiếp tục phạm tội.

Cũng như các hình phạt bổ sung khác, hình phạt này được áp dụng “làm cho việc xử lý hình sự được toàn diện, triệt để, phát huy tác dụng phòng ngừa riêng và răn đe chung của hình phạt”. Thông qua việc cấm người bị kết án đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định, hình phạt bổ sung này thực hiện chức năng phòng ngừa tội phạm vì nếu để cho người bị kết án tiếp tục đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc công việc đã bị lợi dụng thì có thể họ lại tiếp tục phạm tội, gây tác hại cho xã hội.

Bằng việc tác động trực tiếp đến người bị kết án, hình phạt còn có tác dụng gián tiếp răn đe những người không vững vàng trong xã hội, góp phần giáo dục ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành pháp luật, hỗ trợ cho công tác phòng và chống tội phạm. Đồng thời, việc áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định còn có tác dụng củng cố kết quả đạt được do việc áp dụng hình phạt chính đối với người bị kết án.

Bình luận tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

Theo điều luật, Tội Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định hình phạt này bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất: Cấm người bị kết án đảm nhiệm chức vụ nhất định

Mặc dù điều luật không chỉ rõ những chức vụ cụ thể nào bị cấm, nhưng có thể suy ra chức vụ bị cấm là chức vụ hoặc tương tự chức vụ mà người bị kết án đã đảm nhiệm khi phạm tội. Việc cấm người bị kết án đảm nhiệm chức vụ đó là nhằm loại bỏ khả năng người này tiếp tục lợi dụng chức vụ hoặc tiếp tục không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của người có chức vụ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Thứ hai: Cấm người bị kết án không được hành nghề nhất định

Nghề nghiệp là công việc hàng ngày được đào tạo hoặc tự đào tạo, mang tính ổn định cao nhằm thu về lợi ích vật chất nhất định như: thợ mộc, thợ tiện, nghề khắc dấu, bác sĩ, giáo viên, luật sư, lập trình viên, v… Việc hiểu các nghề có thể bị cấm cũng tương tự như cách hiểu các chức vụ có thể bị cấm.

Ví dụ: Cấm hành nghề lái xe đối với những người lái xe chuyên nghiệp không tuân thủ quy tắc nghề nghiệp, vi phạm an toàn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng.

Thứ ba: Cấm người bị kết án làm những công việc nhất định

Công việc được nói trong điều luật này được hiểu là những việc làm có tính chất gần giống nghề nghiệp nhưng có tính thời vụ, không ổn định. Việc phân biệt rạch ròi giữa nghề và công việc nhất định là rất khó khăn, nhất là trong nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay có những việc đối với người này là một nghề nhưng đối với người khác lại là công việc. Việc hiểu các công việc có thể bị cấm cũng tương tự như cách hiểu các chức vụ, nghề có thể bị cấm…

Trong thời hạn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, người chấp hành án có nghĩa vụ: Báo cáo về chức vụ, nghề hoặc công việc bị cấm đảm nhiệm cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú; không được tiếp tục hoặc phải từ chối đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định đã bị cấm; không được ứng cử vào chức vụ đã bị cấm; có mặt khi cơ quan có thẩm quyền triệu tập liên quan đến việc chấp hành án của mình.

Tuy nhiên, họ vẫn được ứng cử, bổ nhiệm, đề bạt vào chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc không bị cấm. Hình phạt bổ sung này được áp dụng khi điều luật về tội bị kết án có quy định hình phạt này và chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn (bao gồm cả trường hợp được hưởng án treo).

Thực tiễn xét xử cho thấy, hình phạt bổ sung này thường được áp dụng kèm theo hình phạt tù có thời hạn hoặc trường hợp bị cáo bị kết án tù nhưng được hưởng án treo. Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định là hình phạt có tính nghiêm khắc hơn so với cảnh cáo, phạt tiền.

Vì vậy, quy định hình phạt này bổ sung và hỗ trợ cho hình phạt cảnh cáo cũng như hình phạt tiền là không tương xứng. Theo đó, Điều 41 BLHS nên quy định rõ hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng kèm theo hình phạt chính nào thì sẽ hợp lý hơn.

Về thời hạn, điều luật quy định hình phạt này có thời hạn từ 01 năm đến 05 năm, tính từ ngày chấp hành xong hình phạt tù có thời hạn hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đối với trường hợp hình phạt được áp dụng là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù trong trường hợp cho hưởng án treo.

Quy định này gián tiếp thể hiện hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt tù có thời hạn (bao gồm cả trường hợp cho hưởng án treo), hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt phạt tiền hoặc hình phạt cảnh cáo.

Đánh giá bài viết:
5/5 - (2 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi