Hình phạt cảnh cáo theo Bộ luật hình sự mới nhất
Điều 34 BLHS quy định điều kiện và phạm vi áp dụng của hình phạt cảnh cáo là loại hình phạt đối với người phạm tội. Cảnh cáo là hình phạt chính có nội dung cưỡng chế ít nghiêm khắc nhất so với các hình phạt chính khác được quy định trong BLHS.
Quy định về hình phạt cảnh cáo theo Bộ luật hình sự
Điều 34 Bộ luật hình sự quy định về hình phạt cảnh cáo như sau:
Bình luận về hình phạt cảnh cáo theo Bộ luật hình sự mới nhất
Điều luật quy định điều kiện và phạm vi áp dụng của hình phạt cảnh cáo là loại hình phạt đối với người phạm tội. Cảnh cáo là hình phạt chính có nội dung cưỡng chế ít nghiêm khắc nhất so với các hình phạt chính khác được quy định trong BLHS.
Cảnh cáo được áp dụng không nhằm trực tiếp hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án như quyền tự do, quyền sở hữu tài sản, quyền sống… mà nó là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án quyết định áp dụng đối với người bị kết án.
Với nội dung thể hiện việc Tòa án tuyên bản án buộc tội và thay mặt Nhà nước khiển trách công khai người phạm tội, cảnh cáo gây cho họ những tổn thất nhất định về tinh thần, người bị kết án đã phải chịu sự lên án của Nhà nước về hành vi phạm tội đã thực hiện. Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên (Điều 71 Luật thi hành án hình sự).
So với cảnh cáo là hình thức xử phạt hành chính thì về nội dung hình phạt cảnh cáo có tính chất nghiêm khắc hơn hẳn. Kèm theo hình phạt cảnh cáo luôn luôn có hậu quả pháp lý là án tích. Người bị kết án sẽ phải mang án tích trong thời hạn thông thường là một năm (điểm a khoản 2 Điều 70 BLHS). Người bị kết án được xóa án tích nếu từ ngày chấp hành xong bản án hoặc kể từ khi việc thi hành bản án đã quá thời hiệu và người đó không phạm tội mới trong thời hạn nói trên.
Theo điều luật, cảnh cáo được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau:
– Tội phạm mà người bị kết án thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng (tội gây nguy hại không lớn cho xã hội nên loại hình phạt nặng nhất được quy định trong khung hình phạt là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc mức hình phạt tù cao nhất được quy định trong khung hình phạt là bằng hoặc dưới 03 năm tù);
– Trường hợp phạm tội của người bị kết án có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên được quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 51 BLHS; và
– Người bị kết án chưa đến mức được miễn hình phạt theo Điều 59 BLHS.
Trong thực tiễn xét xử, hình phạt cảnh cáo được Tòa án áp dụng rất hạn chế, chỉ áp dụng với những tội ít nghiêm trọng mà điều luật về tội phạm có quy định hình phạt này và phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: hậu quả tác hại chưa xảy ra hoặc người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, phạm tội lần đầu, người phạm tội là người dân lao động, nhất thời phạm tội, nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự…
Trong trường hợp này, người phạm tội đáng được khoan hồng nhưng để miễn hình phạt hoặc xử lý bằng hình thức khác thì quá nhẹ, không đáp ứng yêu cầu giáo dục, cải tạo người phạm tội và thực hiện phòng ngừa chung, nhưng nếu áp dụng các hình phạt chính khác nặng hơn thì chưa cần thiết. Đối với những người này Tòa án tuyên phạt hình phạt cảnh cáo là đủ để họ nhận thức được sai lầm mà tự mình sửa chữa.
Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, việc lựa chọn giữa hai khả năng miễn hình phạt và áp dụng hình phạt cảnh cáo trong trường hợp người phạm tội phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ là rất khó khăn, bởi ranh giới áp dụng giữa hai khả năng xử lý này đối với người phạm tội là không lớn. Vì vậy, đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc, đánh giá thật đầy đủ, toàn diện mọi tình tiết liên quan đến vụ án để cân nhắc đưa ra quyết định phù hợp, đảm bảo hiệu quả của biện pháp được áp dụng.
Hình phạt cảnh cáo trong thực tiễn ít được áp dụng so với các hình phạt chính khác là do còn những tồn tại nhất định, như quy định về phạm vi áp dụng còn hạn chế, tính cưỡng chế, tác dụng phòng ngừa, giáo dục của hình phạt này không cao, điều kiện áp dụng không được quy định rõ ràng… Tuy vậy, nhà làm luật vẫn giữ hình phạt này trong hệ thống hình phạt của BLHS năm 2015, vì nó “vẫn để lại án tích nên vẫn có tác dụng răn đe, phòng ngừa nhất định.
Việc duy trì hình phạt này góp phần bảo đảm định hướng giảm hình phạt tù”. Mặt khác, hình phạt này còn giữ vị trí trung gian giữa phạt tiền với miễn hình phạt, đảm bảo cho hệ thống hình phạt có được tính thống nhất nội tại của nó.
BÀI VIẾT MỚI NHẤT
Phân tích điều 321 bộ luật hình sự
Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ, Phân tích điều 321 bộ luật hình sự. Mời Quý vị theo dõi nội...
Tội báo cáo sai theo quy định Bộ luật hình sự mới nhất
Theo quy định tại Bộ luật hình sự Người nào cố ý báo cáo sai trong hoạt động quân sự gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03...
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng bị phạt tù bao nhiêu năm?
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm có hai hành vi là lừa dối và hành vi chiếm đoạt. Hai hành vi này đều có quan hệ mật thiết với nhau. Hành vi lừa dối được xem là điều kiện tiên quyết để hành vi chiếm đoạt xảy ra, hành vi chiếm đoạt chính là kết quả, mục đích cuối cùng của hành vi lừa...
Giới thiệu tổ chức Ân xá quốc tế
Tổ chức Ân xá quốc tế, có tên Tiếng Anh là “Amnesty International”, tên viết tắt là AI, là một tổ chức phi chính phủ, có mục đích bảo vệ tất cả quyền con người được nêu trong bản Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền và các chuẩn mực quốc tế khác....
Việc kiểm soát thư tín điện thoại điện tín của cá nhân được thực hiện trong trường hợp?
“Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người...
Xem thêm


























