Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nhất.
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 643 Lượt xem

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nhất.

Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định trong BLHS năm 2015. Người phạm tội trong trường hợp này có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện việc này họ đã dùng vũ lực, gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết. 

Những tình tiết nào được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?

Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: 

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; 

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; 

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; 

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; 

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; 

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vị trái pháp luật của nạn nhân gây ra; 

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; 

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn,

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; 

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; 

1) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; 

m) Phạm tội do lạc hậu; 

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai, 

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; 

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, 

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, 

r) Người phạm tội tự thú; 

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, 

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; 

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội, 

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác, 

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt. 

Bình luận về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 

Điều luật liệt kê các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nhất tại khoản 1. Khoản 2 có nội dung cho phép Tòa án được tự xác định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác. Khoản 3 khẳng định tính loại trừ giữa dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chủ yếu mới chỉ được liệt kê mà không được mô tả cụ thể. Việc xác định nội dung của một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có thể dựa vào nội dung quy định của một số điều luật trong Phần thứ nhất của BLHS như tình tiết phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết và phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội v… Các tình tiết này được giải thích qua các quy định về phòng vệ chính đáng (Điều 22 BLHS), về tình thế cấp thiết (Điều 23 BLHS), về gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24 BLHS)… Đối với các tình tiết khác, nếu không có hướng dẫn cụ thể thì Toà án phải tự xác định nội dung khi áp dụng. 

Dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng luật hình sự, có thể khái quát nội dung cũng như ý nghĩa của từng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được liệt kê tại khoản 1 của điều luật như sau: 

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm 

– Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm và nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không để cho tác hại xảy ra hoặc đã hạn chế được tác hại của tội phạm. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do có tình tiết này không chỉ phụ thuộc vào thái độ chủ quan của người phạm tội đối với hành vi ngăn chặn hoặc giảm bớt tác hại (như có tự nguyện, tích cực hay không..) mà còn phụ thuộc vào thực tế tác hại được ngăn chặn hoặc hạn chế như thế nào.

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả 

Đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại và đã tự nguyện (không phải vì bị ép buộc) thực hiện các hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm là sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vị khác khắc phục hậu quả của tội phạm. 

Các hành vi trên đây cũng đồng thời phản ánh thái độ ăn năn hối lỗi của người phạm tội đối với hành vi phạm tội của mình. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này phụ thuộc vào sự cố gắng của người phạm tội cũng như vào mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế. 

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 

Đây là trường hợp phạm tội có động cơ là phòng vệ. Hành vi phạm tội xảy ra là do người phòng vệ đã vượt quá giới hạn luật cho phép.

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết 

Đây là trường hợp phạm tội có động cơ hành động trong tình thế cấp thiết – gây thiệt hại để tránh thiệt hại khác lớn hơn đang đe dọa. Hành vi phạm tội xảy ra là do người được hành động trong tình thế cấp thiết đã gây ra thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết mà luật cho phép.

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội 

Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định trong BLHS năm 2015. Người phạm tội trong trường hợp này có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện việc này họ đã dùng vũ lực, gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết. 

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra 

Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế về khả năng kiểm soát và khả năng điều khiển hành vi do tác động của hành vi trái pháp luật của nạn nhân. Mức độ giảm nhẹ trong từng trường hợp cụ thể tuỳ thuộc trước hết vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tác động… 

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra 

Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện tội phạm do bị chi phối bởi hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do khách quan đưa lại. Trong đó, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hiểu là hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều so với mức bình thường, có thể do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn hoặc do nguyên nhân khách quan khác. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ khó khăn và mức độ cố gắng tìm cách khắc phục của người phạm tội. 

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn 

Trường hợp phạm tội có tình tiết này giống trường hợp phạm tội có tình tiết ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm ở chỗ thiệt hại của tội phạm không xảy ra hoặc xảy ra không lớn nhưng khác nhau nguyên nhân dẫn đến việc không xảy ra thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra không lớn.

Trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý muốn của người phạm tội; còn trong trường hợp ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, người phạm tội đã có hành động tích cực để có được kết quả đó. Do hậu quả của tội phạm cũng là yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên luật hình sự coi trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại gây ra không lớn là trường hợp được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng 

Đây là trường hợp lần đầu tiên phạm tội và tội phạm đã được thực hiện phải là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này phụ thuộc nhiều vào mức độ ít nghiêm trọng của hành vi phạm tội. 

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức 

Đây là trường hợp phạm tội do bị chi phối bởi ý chí của người khác thông qua hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Do bị đe dọa hoặc cưỡng bức nên người phạm tội không hoàn toàn tự do lựa chọn, điều khiển hành vi của mình mà bị buộc phải thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa hoặc cưỡng bức. Đe dọa trong trường hợp này được hiểu là đe dọa sẽ gây thiệt hại như dọa sẽ gây thương tích, dọa sẽ hủy hoại tài sản… nếu người bị đe dọa không thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình. Cưỡng bức là hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần người khác để buộc họ phải thực hiện tội phạm theo ý muốn của mình như đánh đập hoặc giam giữ người bị cưỡng bức… Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này tuỳ thuộc nhiều vào mức độ bị đe dọa hoặc cưỡng bức. 

1) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra 

Đây là tình tiết mới được quy định trong BLHS năm 2015. Người phạm tội trong trường hợp này đã thực hiện tội phạm trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hành vi và tình trạng này không phải do lỗi của chủ thể như do bị lừa dối nên đã sử dụng nhầm chất kích thích mạnh. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hành vi của người phạm tội. 

m) Phạm tội do lạc hậu 

Đây là trường hợp phạm tội trong đó người phạm tội do trình độ nhận thức lạc hậu nên có sự nhận thức hạn chế tình nguy hiểm cho xã hội của hành vi và do vậy đã thực hiện tội phạm. Khi cân nhắc mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này cần căn cứ vào mức độ lạc hậu của người phạm tội trong điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương – nơi người phạm tội sinh sống. 

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai 

Đây là trường hợp người phụ nữ phạm tội trong thời gian đang mang thai. Tình tiết này được quy định chủ yếu là xuất phát từ chính sách nhân đạo nhưng cũng có phần là do tình trạng sức khỏe và tình trạng tâm sinh lý của người phụ nữ có thể bị ảnh hưởng khi mang thai. 

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên 

Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định thay cho tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được quy định trong BLHS năm 1999: “Người phạm tội là người già”. Việc quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ xuất phát chủ yếu từ nguyên tắc nhân đạo và có tính đến đặc điểm tâm sinh lý ở lứa tuổi này. 

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng 

Đây cũng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được quy định trong BLHS năm 2015. Việc quy định tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chủ yếu xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo đối với người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình 

Đây là trường hợp phạm tội mà chủ thể đã phạm tội khi đang trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi do bị mắc bệnh. Trong trường hợp này, lỗi của người phạm tội là lỗi hạn chế nên họ được coi là có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc mức độ hạn chế khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội. 

Theo khoản 2 Điều 3 Luật người khuyết tật, người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày và người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày. 

r) Người phạm tội tự thú 

Đây là trường hợp tuy chưa bị phát hiện là người phạm tội nhưng chủ thể đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình. 

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải 

Đây là trường hợp người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện, có biểu hiện thể hiện rõ sự day dứt, hối hận về việc thực hiện tội phạm và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động… 

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án 

Đây là trường hợp người phạm tội đã tích cực cung cấp các bằng chứng, tài liệu, tin tức cho cơ quan có trách nhiệm hoặc làm mọi việc theo yêu cầu của cơ quan đó để phát hiện hoặc xử lý tội phạm mà họ tham gia thực hiện hoặc về tội phạm khác hoặc người phạm tội khác có liên quan mà họ biết. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do có tình tiết này phụ thuộc chủ yếu vào hiệu quả của hành vi tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện hoặc trong quá trình giải quyết vụ án. 

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội 

Đây là trường hợp người phạm tội đã có thành tích đột xuất, tương đối đặc biệt như thành tích trong cứu hoả, chống bão, lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng...  Việc lập công này đã thể hiện phần nào sự hối hận cũng như quyết tâm cải tạo của người phạm tội. 

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác 

Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hướng dẫn áp dụng cho các trường hợp người phạm tội được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sĩ thi đua… (139) 

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ 

Đây cũng là tình tiết mới được quy định trong BLHS năm 2015, nhưng đã được thừa nhận trong thực tiễn xét xử từ nhiều năm (140) Việc quy định tình tiết này chủ yếu xuất phát từ chính sách của Nhà nước đối với người có công với cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. 

Khoản 2 của điều luật cho phép Toà án có thể xác định tình tiết khác ngoài các tình tiết được liệt kê tại khoản 1 là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Để định hướng cho việc áp dụng quy định này, điều luật lấy ví dụ tình tiết đầu thú là tình tiết tương tự như tình tiết tự thú (chỉ khác nhau ở chỗ chưa hoặc đã bị phát hiện) để nhấn mạnh, tình tiết mà Tòa án coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải có tính chất tương tự như các tình tiết đã được liệt kê trong luật. Khi tự xác định tình tiết cụ thể là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. 

Khoản 3 của điều luật có nội dung thể hiện nguyên tắc: “một tình tiết không được sử dụng nhiều lần để lưu ý cơ quan áp dụng khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được xác định tại điều luật có tính chất chung và chỉ được phép áp dụng đối với tội phạm cụ thể khi tình tiết đó chưa được quy định là dấu hiệu định tội cũng như là dấu hiệu định khung hình phạt của tội phạm đó. Tuy nhiên, diễn đạt của khoản 3 chưa thể hiện rõ nội dung này. Theo đó, khoản này được diễn đạt lại như sau: 

3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt ở tội cụ thể) thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt (đối với người phạm tội này)” thì sẽ chính xác hơn. 

Trên đây là nội dung bài viết Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nhất của Công ty Luật Hoàng Phi? Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn 1900.6557

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi