• Thứ ba, 14/05/2024 |
  • Tư vấn Luật Lao động – Tiền Lương |
  • 1085 Lượt xem

Quy định về xây dựng quan hệ lao động

Quan hệ lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. 

Xây dựng quan hệ lao động như thế nào?

Điều 7 Bộ luật lao động quy định về xây dựng quan hệ lao động như sau:

Điều 7. Xây dựng quan hệ lao động

1. Quan hệ lao động được xác lập qua đối thoại, thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau.

2. Người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và người lao động, tổ chức đại diện người lao động xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định với sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 

3. Công đoàn tham gia cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định; giám sát việc thi hành quy định của pháp luật về lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.

4. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức đại diện của người sử dụng lao động khác được thành lập theo quy định của pháp luật có vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, tham gia y dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.

Bình luận quy định về xây dựng quan hệ lao động

Điều 7 đưa ra các quy định có tính định hướng, nguyên tắc để xây dựng quan hệ lao động ở Việt Nam theo hướng tiến bộ, hài hòa, ổn định. 

1. Quan hệ lao động được xác lập, thực hiện trên cơ sở sự tự nguyện của các bên thông qua đối thoại, thương lượng, trong đó nguyên tắc thiện chí là cốt lõi xuyên suốt của quá trình xác lập và thực hiện quan hệ. Bởi vì, chỉ có sự thiện chí của các bên trong mọi cuộc thương lượng thì mới có thể đạt được những cam kết thực chất, mang tính xây dựng, trên cơ sở chia sẻ lợi ích và có tính khả thi khi thực hiện. Nếu thiếu sự thiện chí khi đối thoại, thương lượng sẽ không có kết quả hoặc nếu có thì chỉ là hình thức. 

2. Vai trò của Nhà nước trong đối thoại, thương lượng là sự hỗ trợ cho các bên trong việc tạo ra môi trường, thể chế, thiết lập hệ thống công cụ hỗ trợ… Như vậy, Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào quá trình này, tức là Nhà nước trao quyền và tôn trọng sự tự định đoạt của các bên trong quan hệ lao động. Điều đó cũng có nghĩa rằng, các bên trong quan hệ lao động cần cùng nhau tôn trọng các cam kết đưa ra và kết quả đạt được từ thương lượng tự nguyện, bình đẳng và thiện chí, bởi suy cho cùng đây là ý chí của chính họ và họ không thể bội ước với chính mình. 

3. Công đoàn thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị – xã hội được Hiến pháp quy định có quyền và trách nhiệm tham gia cùng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định, giám sát việc thi hành quy định của pháp luật về lao động. Đây là chức năng riêng có của tổ chức công đoàn mà các tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp chưa có được. Tuy nhiên, quy định này có thể dẫn đến sự suy luận là vai trò này của công đoàn chỉ giới hạn trong phạm vi với các công đoàn viên thuộc tổ chức của công đoàn. Song hàm ý của điều luật về vai trò này của công đoàn là với mọi người lao động không phân biệt họ có phải là công đoàn viên hay không. 

4. Tổ chức người sử dụng lao động tham gia xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ không chỉ bao gồm những tổ chức đã được Chính phủ quy định (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) mà còn là các tổ chức đại diện của người sử dụng lao động khác được thành lập theo quy định của pháp luật hiện chúng ta đã thừa nhận tính hợp pháp về đại diện của một số hiệp hội đầu tư nước ngoài như: Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham), Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (VCCI), Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KorCham), Hiệp hội Doanh nghiệp Hồng Kông tại Việt Nam (HKBAV)…).

Điều này cho thấy, thực tiễn pháp lý Việt Nam đã thừa nhận tính đa đại diện của người sử dụng lao động. Tất cả những tổ chức đại diện này đều có tư cách và địa vị pháp lý như nhau trong vai trò tham gia xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ khi đầu tư ở Việt Nam.

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Đối thoại tại nơi làm việc có bắt buộc không?

Luật sư cho tôi hỏi, đối thoại tại nơi làm việc có bắt buộc không? Nội dung chủ yếu của đối thoại tại nơi làm việc là...

Thời gian nghỉ việc để kết hôn có được hưởng lương không?

Trong 4 ngày nghỉ kết hôn tôi không được tính lương. Luật sư cho tôi hỏi, công ty không trả lương trong thời gian tôi nghỉ kết hôn có đúng không? Mong sớm nhận được câu trả lời từ Luật...

Có bắt buộc phải hòa giải khi tranh chấp lao động?

Tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động giữa người lao động, tập thể lao động với người sử dụng lao...

Quy định của Bộ luật lao động về quyền làm việc của người lao động

Quyền làm việc của người lao động giúp cho người lao động được xác lập quan hệ lao động và thực hiện hành vi lao động hợp pháp. Quyền làm việc của người lao động là một đặc quyền xã hội – pháp lý căn bản giúp cho người lao động được tiến hành xác lập quan hệ lao động và thực hiện hành vi lao động hợp...

Quy trình thương lượng tập thể tại doanh nghiệp

Khi có yêu cầu thương lượng tập thể của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có quyền yêu cầu thương lượng tập thể theo quy định tại Điều 68 của Bộ luật này hoặc yêu cầu của người sử dụng lao động thì bên nhận được yêu cầu không được từ chối việc thương lượng....

Xem thêm