Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Thế nào là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội?
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 536 Lượt xem

Thế nào là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội?

Điều luật mô tả trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và xác định vấn đề trách nhiệm hình sự trong trường hợp này. Theo quy định này, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm và đã thực hiện nếu đã tự ý dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm đến cùng.

Quy định của BLHS về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. 

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. 

Bình luận về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Điều luật mô tả trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và xác định vấn đề trách nhiệm hình sự trong trường hợp này. Theo quy định này, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm và đã thực hiện nếu đã tự ý dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm đến cùng.

Để áp dụng thống nhất và đúng mục đích, điều luật mô tả tương đối cụ thể các dấu hiệu của trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. 

Theo nội dung đoạn 1 của điều luật, đây là trường hợp người phạm tội dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm (đến cùng) và việc dừng lại không phải vì bị ngăn cản mà do ý muốn chủ quan (tự mình). 

Trước hết, cần chú ý về thời điểm dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm “đến cùng”. Theo quy định, việc dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm “đến cùng chỉ có thể xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt và thuộc trường hợp chưa đạt chưa hoàn thành. 

Trong trường hợp tội phạm hoàn thành, trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không thể xảy ra được vì người phạm tội đã thực hiện tội phạm được “đến cùng”.

Trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng không thể xảy ra khi tội phạm thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành vì trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi mong muốn, chủ thể không còn thực hiện tội phạm nữa nên không thể có việc dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm. 

Thứ hai: Việc không thực hiện tiếp tội phạm phải là “tự mình” và “không có gì ngăn cản”. Theo đó, việc không thực hiện tiếp tội phạm phải hoàn toàn do động lực bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối.

Việc dừng lại, không thực hiện tiếp tội phạm là hoàn toàn “tự nguyện”. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp được tội phạm. Việc dừng lại cũng không phải để sau này tiếp tục thực hiện lại tội phạm.

Như vậy, việc dừng lại, không thực hiện tiếp tội phạm phải có tính “dứt khoát”. Dấu hiệu “không có gì ngăn cản” chỉ đòi hỏi là sự nhận thức chủ quan của chủ thể mà không đòi hỏi thực tế đúng là không có gì ngăn cản.

Nếu thực tế có sự ngăn cản nhưng chủ thể thực hiện tội phạm không biết điều đó khi dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm thì họ vẫn được coi là “tự mình” và việc dừng lại vẫn được coi là tự nguyện. 

Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do những động cơ khác nhau thúc đẩy như hối hận, sợ bị phát hiện, sợ bị trừng trị … Luật hình sự không đòi hỏi người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải thực sự hối hận… Vấn đề quan trọng ở đây là tội phạm đã được dừng lại, thiệt hại có thể gây ra đã không xảy ra. 

Đoạn 2 của điều luật xác định người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm.

Trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, người phạm tội về mặt chủ quan đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý định phạm tội của mình, không còn mong muốn thực hiện tội phạm “đến cùng như 

trường hợp phạm tội chưa hoàn thành. Xét về mặt khách quan, hành vị đã thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chưa có tính nguy hiểm đầy đủ của tội phạm muốn thực hiện vì chưa thoả mãn hết các dấu hiệu của CTTP.

Trong sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan như vậy, hành vi đã thực hiện của người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được coi như đã mất tính nguy hiểm của tội phạm muốn thực hiện. Do vậy, việc miễn trách nhiệm hình sự “về tội định phạm” cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là có cơ sở. 

Đoạn 2 của điều luật cũng xác định, nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ các dấu hiệu của tội phạm khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Quy định này nhằm khẳng định rõ hơn việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ đối với tội định phạm.

Ví dụ: Chủ thể tội giết người trong khi đang thực hiện tội phạm đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người (Điều 123 BLHS) nhưng người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS) nếu hành vi đã thực hiện (trước khi dừng lại thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm này. 

Một trường hợp khác có cùng tính chất như trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nhưng chưa được BLHS Việt Nam quy định là trường hợp tự ý ngăn chặn tội phạm. Như đã phân tích, khi người phạm tội đã thực hiện tội phạm đến giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành thì vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không được đặt ra.

Ví dụ: A đã đặt mìn để hủy hoại ô tô đỗ ban đêm ngoài đường của B. Khi đã đặt quả mìn dưới gầm ô tô và bật công tắc hẹn giờ của quả mìn thì tội phạm do A thực hiện đã là tội phạm chưa đạt đã hoàn thành. A không cần làm gì tiếp thì quả mìn vẫn sẽ nổ theo hẹn giờ.

Trong trường hợp này, vấn đề “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” không còn được đặt ra. A có thể ngăn được việc mìn nổ bằng cách tắt công tắc hẹn giờ để vô hiệu hóa quả mìn.

Hành động tích cực” như vậy được luật hình sự coi là trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự nếu hành động đó được thực hiện tự nguyện, “tự mình”. Trường hợp này chưa được quy định trong BLHS Việt Nam. Trong thực tế, nếu có trường hợp như vậy xảy ra thì có thể áp dụng Điều 16 theo nguyên tắc tương tự để miễn trách nhiệm hình sự.

Trên đây là nội dung bài viết Thế nào là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội? của Công ty Luật Hoàng Phi? Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn 1900.6557

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Tội chế tạo tàng trữ vận chuyển chiếm đoạt vật liệu nổ

Chất nổ là chất có khả năng gây nên phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa ra nhiều nhiệt và phát sáng, đồng thời sinh ra khí và tạo ra tiếng...

Dịch vụ luật sư hình sự

Luật sư hình sự đóng vai trò quan trọng trong các vụ án hình sự bởi vì họ là người đại diện cho khách hàng trong quá trình tố...

Tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân mới nhất?

Xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân, được hiểu là hành vi lừa gạt, mua chuộc, cưỡng ép hoặc dùng thủ đoạn khác nhằm cản trở người khác thực hiện quyền bầu cử, quyền ứng...

Tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật theo quy định mới nhất

Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, được hiểu là hành vi thực hiện bắt, tạm giữ, tạm giam người không đúng với qui định của pháp luật. Trái pháp luật có thể là không đúng thẩm quyển nhưng đúng thủ tục mà pháp luật quy...

Truy tố là gì? Cần những thủ tục gì để đề nghị truy tố bị can?

Đề nghị truy tố là một trong những hình thức kết thúc điều tra, theo đó, trong bản kết luận điều tra, cơ quan điều tra đã khẳng định có đủ chứng cứ để chứng minh tội phạm, người phạm tội và quyết định đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can ra trước Toà án để xét...

Xem thêm