• Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tư vấn Luật Hình sự |
  • 733 Lượt xem

Nguyên tắc xử lý hình sự đối với người phạm tội như thế nào?

Phát hiện kịp thời tội phạm bao gồm phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, phát hiện người thực hiện hành vi đó cũng như phát hiện dấu hiệu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại vì có liên quan với hành vi và người thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm. 

Quy định của pháp luật về nguyên tắc xử lý hình sự

Điều 3. Nguyên tắc xử lý

1. Đối với người phạm tội: 

a) Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; 

b) Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội; 

c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; 

d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 

Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra; 

đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục; 

e) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện; 

g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.

2. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội: 

a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; 

b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, 

c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng 

d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra. 

Phân tích về nguyên tắc xử lý hình sự theo quy định hiện hành

Điều luật xác định các nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội và đối với pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự mà điều luật gọi là pháp nhân thương mại phạm tội và qua đó thể hiện một số nguyên tắc chung của luật hình sự Việt Nam. 

Nguyên tắc tổng quát trong chống tội phạm được điều luật xác định tại điểm a khoản 1 cũng như điểm a khoản 2.

Theo đó, tội phạm phải được “… phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật”. Đây là nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả của BLHS.

Điều luật sử dụng khái niệm “Pháp nhân thương mại phạm tội” và khái niệm này cần được hiểu theo nghĩa “Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự” mà không theo nghĩa pháp nhân thương mại đã thực hiện tội phạm bên cạnh tội phạm do cá nhân thực hiện.

Do vậy, để tránh hiểu nhầm, trong cuốn sách này, các tác giả sử dụng khái niệm “Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự thay cho khái niệm “Pháp nhân thương mại phạm tội”. 

Trong thực hiện nhiệm vụ chống tội phạm cũng như nhiệm vụ bảo vệ, phòng ngừa và giáo dục. Nguyên tắc này có các nội dung sau: 

– Phát hiện kịp thời: Phát hiện tội phạm kịp thời không chỉ ngăn ngừa được sớm khả năng tái diễn của tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra tội phạm mà còn góp phần tạo dựng môi trường pháp lý nghiêm minh và qua đó tăng tính răn đe, giáo dục.

Nhiệm vụ phát hiện kịp thời được đặt ra không chỉ cho các cơ quan bảo vệ pháp luật mà cho tất cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức cũng như mọi cá nhân.

Phát hiện kịp thời tội phạm bao gồm phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, phát hiện người thực hiện hành vi đó cũng như phát hiện dấu hiệu về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại vì có liên quan với hành vi và người thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm. 

– Xử lý nhanh chóng: Xử lý tội phạm nhanh chóng bao gồm: Điều tra nhanh chóng, truy tố nhanh chóng, xét xử nhanh chóng. Các hoạt động này phải được hoàn tất nhanh nhất có thể trong thời hạn luật định.

Điều này đòi hỏi không chỉ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà đòi hỏi ý thức trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự thuộc các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử. 

– Xử lý phải công minh theo đúng pháp luật: Các hoạt động xử lý tội phạm phải được thực hiện theo đúng pháp luật, kể cả pháp luật hình thức (pháp luật tố tụng hình sự) và pháp luật nội dung (BLHS).

Trong khi áp dụng đúng pháp luật như vậy, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải đảm bảo tính công bằng không thiên vị trong các quyết định của mình;

Nội dung các quyết định phải phù hợp với hoàn cảnh cụ thể có tính riêng biệt của người phạm tội cũng như của pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự.

Mọi quyết định trong xử lý tội phạm, trong đó có phán quyết của Tòa án đều phải công bằng và minh bạch trong phạm vi pháp luật cho phép.

Chỉ khi đáp ứng được yêu cầu này thì việc xử lý tội phạm mới tạo ra môi trường pháp lý tích cực có khả năng giáo dục và răn đe. 

Nguyên tắc bình đẳng trong xử lý tội phạm

Nguyên tắc này dựa trên nguyên tắc chung về bình đẳng được thể hiện trong Hiến pháp tại Điều 16 (Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và tại Điều 51 (Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,…).

Theo đó, điểm b khoản 1 của điều luật xác định: Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật; việc xử lý tội phạm từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử đều không bị chi phối bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của người phạm tội.

Tương tự như vậy, điểm b khoản 2 của điều luật xác định: Mọi pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đều bình đẳng trước pháp luật; việc truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân thương mại cũng không bị chi phối bởi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế của pháp nhân thương mại.

Tất cả các cá nhân và pháp nhân thương mại đều bình đẳng trước pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng.

Người phạm tội cũng như pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đều phải được các cơ quan tiến hành tố tụng đối xử bình đẳng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. 

Nguyên tắc phân hóa trong xử lý tội phạm

Một trong những nguyên tắc của luật hình sự là nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật và cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng.

Thể hiện nguyên tắc này, khoản 1 và khoản 2 của điều luật đã xác định các đối tượng cần nghiêm trị và các đối tượng cần khoan hồng. 

Theo điểm c khoản 1 của điều luật, những người phạm tội cần nghiêm trị là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. 

Những trường hợp cần bị nghiêm trị được nêu trên đây đều không có nghĩa việc nghiêm trị là vì đặc điểm riêng của người phạm tội mà vì tính nguy hiểm cao của tội phạm do bị ảnh hưởng của những đặc điểm riêng này. Cụ thể: 

– Đặc điểm “chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy” thể hiện người phạm tội là người giữ vai trò nguy hiểm – vai trò tổ chức trong vụ phạm tội

– Đặc điểm “ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm” thể hiện mức độ lỗi nghiêm trọng của người phạm tội.

– Đặc điểm “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” thể hiện mức độ nguy hiểm cao của hành vi phạm tội do thủ đoạn phạm tội.

Theo điểm d khoản 1 của điều luật, những người phạm tội cần nghiêm trị còn là những người dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Đây đều là những trường hợp có tính nguy hiểm cao do thủ đoạn phạm tội, do hình thức phạm tội hoặc do hậu quả của tội phạm .

Theo điểm c khoản 2 của điều luật, trường hợp pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự cần bị nghiêm trị là trường hợp đã dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý y hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Theo điểm d khoản 1 của điều luật, người phạm tội được khoan hồng là người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra cũng như là người tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án. 

Đây là những trường hợp cần khuyến khích vì đều thể hiện thái độ tích cực của người phạm tội sau khi phạm tội.

Việc áp dụng trách nhiệm hình sự cũng như hình phạt đối với người phạm tội cũng chỉ nhằm mục đích cuối cùng là giáo dục người phạm tội.

Do vậy, thái độ tích cực của người phạm tội qua các biểu hiện cụ thể được liệt kê trên hoàn toàn phù hợp với mục đích của hình phạt cũng như mục đích của trách nhiệm hình sự nói chung.

Khi chưa bị áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự mà người phạm tội đã có sự thay đổi như đích hướng tới của trách nhiệm hình sự thì việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ để thể hiện sự khoan hồng của Nhà nước là điều hoàn toàn hợp lý và cần thiết.

Thái độ tích cực của người phạm tội như vậy cho phép tin tưởng khả năng giáo dục của họ. Việc khoan hồng vừa tạo động lực khuyến khích người phạm tội có thái độ tích cực vừa là sự ghi nhận của Nhà nước đối với cố gắng của họ.

Trong các biểu hiện của thái độ tích cực nêu trên, biểu hiện “tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” là biểu hiện mới được bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015. 

Theo điểm d khoản 2 của điều luật, trường hợp pháp nhân thương mại được khoan hồng là trường hợp tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra. 

Đây là những trường hợp cần khuyến khích vì đều thể hiện thái độ tích cực của pháp nhân thương mại sau khi việc phạm tội đã xảy ra.

Nội dung của chính sách nghiêm trị kết hợp với khoan hồng trên đây đã được thể hiện trước hết tại các điều 51, 52 BLHS (các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của cá nhân);

Các điều 84, 85 BLHS (các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại) cũng như được thể hiện tại các khoản của các điều luật thuộc Phần thứ hai của BLHS quy định về khung hình phạt giảm nhẹ hoặc khung hình phạt tăng nặng.

Nội dung của chính sách này cũng cần được chú ý khi áp dụng luật hình sự để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người phạm tội cũng như đối với pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự. 

Như đã trình bày, mối quan hệ giữa Điều 3 (nội dung quy định về chính sách nghiêm trị và khoan hồng) với các điều 51, 52, 84 và 85 là mối quan hệ giữa nguyên tắc chung và sự cụ thể hóa nguyên tắc chung.

Đánh giá ở góc độ này, Điều 3 còn những hạn chế về kỹ thuật lập pháp. Cụ thể: Với ý nghĩa là điều luật quy định về nguyên tắc xử lý, nội dung trên đây của Điều 3 cần được thể hiện một cách khái quát nhưng lại được xây dựng theo cách liệt kê.

Hơn nữa, giữa nội dung được liệt kê này với nội dung được liệt kê tại các điều 51, 52, 84 và 85 lại có sự “vênh nhau”.

Ví dụ: “ngoan cố chống đối” được liệt kê tại Điều 3 là một đối tượng cần nghiêm trị nhưng tại Điều 52 quy định về các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự không có trường hợp này mà lại có trường hợp “cố tình thực hiện đến cùng hoặc Điều 3 quy định phải nghiêm trị “người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt” những Điều 52 lại quy định “người phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác” là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự. 

Ngoài ra, giữa Điều 3 và các điều 51, 52 còn có sự không thống nhất khác. Đó là:

Trật tự quy định tại Điều 3 là từ đối tượng cần nghiêm trị đến đối tượng được khoan hồng còn tại các điều 51 và 52, trật tự lại là từ “giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” đến “tăng nặng trách nhiệm hình sự”.

Trong hai trật tự này, trật tự sau là trật tự cần được chọn vì phù hợp hơn với nguyên tắc nhân đạo. 

Nguyên tắc nhân đạo trong xử lý tội phạm

Nguyên tắc nhân đạo được thể hiện ở nhiều điều luật khác nhau của BLHS. Riêng tại Điều 3, nguyên tắc này được thể hiện ở 3 nội dung có tính định hướng sau: 

– Hạn chế hình phạt tù: “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù …”, 

– Giảm thiểu thời gian phải chấp hành hình phạt tù: “... nếu họ có đủ điều kiện …, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện”, 

– “Người đã chấp hành xong hình phạt…, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích”. 

Nội dung có tính định hướng trên đây đã được thể hiện trong các quy định về các hình phạt không tước tự do tại các điều 34, 35, 36 BLHS cũng như trong chế định giảm mức hình phạt đã tuyên (Điều 63, Điều 64 BLHS) và chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66 BLHS).

Ngoài 3 nội dung có tính định hướng và đã được cụ thể hóa trong các điều luật, điểm g khoản 1 của điều luật còn xác định “Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng…”.

Nội dung có tính định hướng này tuy thể hiện nguyên tắc nhân đạo nhưng lại vượt ra ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự nên không thể được cụ thể hóa trong điều luật của BLHS. 

Khi áp dụng BLHS, các cơ quan không những phải tuân thủ các điều luật đã cụ thể hóa nguyên tắc xử lý được quy định tại Điều 3 mà cần phải chú ý cả nội dung có tính định hướng chung trong điều luật này. 

Điều 3 là điều luật về nguyên tắc xử lý nhưng nội dung lại chưa được khái quát nên có phần chưa phù hợp với tên gọi của điều luật và dễ dẫn đến có sự không thống nhất giữa điều luật này với các điều luật cụ thể hóa nguyên tắc xử lý.

Với việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, Điều 3 của BLHS bổ sung khoản 2 quy định về nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự.

Về nội dung, khoản này được giải thích cùng với giải thích về nội dung của nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội.

Về hình thức, nên sử dụng “pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự” thay cho “pháp nhân thương mại phạm tội” như đã được trình bày trong bình luận Điều 2 BLHS. Theo đó, sẽ là hợp lý hơn khi diễn đạt điểm a khoản 2 theo hướng:

“Mọi trường hợp pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự phải được phát hiện kịp thời, …” để thay cho “Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, …”. 

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Bị triệu tập vì đánh bạc online có bị tạm giam không?

Tạm giam áp dụng trong những trường hợp nào? Thời gian tạm giam bao lâu? Bị triệu tập vì đánh bạc online có bị tạm giam...

Tội đào ngũ theo quy định Bộ Luật hình sự mới nhất

Người nào rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ trong thời chiến hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03...

Người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp coi là có án tích đúng không?

Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương...

Khi nào được xóa án tích?

Trong những hậu quả pháp lý mà người phạm tội phải chịu do việc phạm tội (chịu bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết án, chịu chấp hành hình phạt và chịu mang án tích) thì án tích là hậu quả pháp lý sau cùng của việc phạm...

Chiếm đoạt tài sản của người khác phạm tội gì?

Anh hàng xóm nhà tôi chiếm đoạt một số tiền 70 triệu đồng. Xin hỏi luật sư trường hợp này anh hàng xóm cạnh nhà tôi sẽ phạm tội...

Xem thêm