Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Doanh nghiệp - Đầu tư Các hình thức đầu tư theo quy định của pháp luật
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 799 Lượt xem

Các hình thức đầu tư theo quy định của pháp luật

Các hình thức đầu tư theo quy định của pháp luật bao gồm những hình thức nào? Bài viết này sẽ giúp Quý vị có những thông tin cần thiết.

Hình thức đầu tư là gì?

Hình thức đầu tư là cách tiến hành hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư theo quy định pháp luật. Trong hệ thống pháp luật hiện hành, các hình thức đầu tư đã được nhất thể hóa thành một khung pháp lý áp dụng chung cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

Điều này xuất phát từ tình hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng. Trong thời kỳ đổi mới kinh tế, Việt Nam liên tục trở thành thành viên chính thức của một số điều ước quốc tế. Với tư cách là thành viên, Việt Nam cam kết tuân thủ nguyên tắc cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có nguyên tắc đối xử quốc gia và vì vậy, hệ thống pháp luật không được phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, tạo nên môi trường cạnh tranh tự do và bình đẳng

Theo Luật Đầu tư năm 2014, các hình thức đầu tư bao gồm: Đầu tự thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế, đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP, đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC. Với các hình thức đầu tư này, Luật Đầu tư hiện hành đã xóa bỏ tiêu chí phân loại hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, chỉ căn cứ vào cách thức tiến hành đầu tư để gọi tên hình thức đầu tư. Sự thay đổi này đã thể hiện sự chuyển biến về tư duy, quan điểm của luật pháp khi không còn phân biệt đầu tư bằng tính chất quản lý hoạt động đầu tư.

Bởi trong một nền kinh tế phát triển, điều cần quan tâm nhất là nhà đầu tư bằng các hành vị hợp pháp tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Còn việc nhà đầu tư có địa vị pháp lý như thế nào trong tổ chức kinh tế ( thành viên sáng lập, quản lý, điều hành hay chỉ hưởng lợi nhuận ) được nghiên cứu trong pháp luật doanh nghiệp và không cần thiết nhắc lại tại pháp luật đầu tư. Vì thế, hiện nay các hình thức đầu tư chỉ phân loại theo đúng bản chất của hoạt động đầu tư. 

Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế 

Tiếp cận dưới góc độ lý luận, đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là một hình thức đầu tư trực tiếp. Đầu tư vào tổ chức kinh tế là việc các nhà đầu tư bỏ vốn và tài sản vào thành lập mới doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh hoặc góp vốn vào vốn điều lệ để nắm quyền quản trị của tổ chức kinh tế đang hoạt động. Đây là hình thức đầu tư phổ biến và được nhiều nhà đầu tư lựa chọn. Hàng năm, số lượng các doanh nghiệp được thành lập mới liên tục tăng. Theo nguyên tắc bình đẳng, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều có quyền thành lập tổ chức kinh tế để tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh nói riêng và hoạt động thương mại nói chung. Căn cứ vào số lượng nhà đầu tư tham gia thành lập tổ chức kinh tế mới, đầu tư thành lập tổ chức kinh tế được phân loại thành hai nhóm: đầu tư thành lập tổ chức kinh tế một chủ sở hữu và đầu tư thành lập tổ chức kinh tế nhiều chủ sở hữu. 

Thứ nhất: Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế một chủ sở hữu 

So với các hình thức đầu tư khác, hình thức đầu tư này mang lại sự chủ động cho nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh. Họ tự quyết định số vốn đầu tư, một mình hưởng lợi nhuận và chịu rủi ro. Nhìn chung, nhà đầu tư được hoàn toàn tự chủ đầu tư kinh doanh. Tổ chức kinh tế được thành lập từ 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài hoặc 100% vốn nhà đầu tư trong nước và được thể hiện bằng một trong hai hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách  nhiệm hữu hạn một thành viên. Ngoài ra, nếu là nhà đầu tư trong nước, họ có thêm sự lựa chọn là hộ kinh doanh. 

Hộ kinh doanh phải do một cá nhân là công dân Việt Nam, hoặc một nhóm người, hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá 10 lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Hình thức đầu tư này rất phù hợp với các nhà đầu tư có nguồn vốn hạn chế. 

Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và không được phát hành trái phiếu. Một nhà đầu tư chỉ được phép thành lập một doanh nghiệp tư nhân.

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ. Đây là tổ chức kinh tế được nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn khi đến đầu tư tại Việt Nam. Bởi mô hình một chủ sở hữu này cho phép nhà đầu tư có quyền quyết định mọi vấn đề trong kinh doanh và trách nhiệm tài sản hữu hạn giúp họ bảo vệ những tài sản còn lại. 

Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam, hoặc một nhóm người, hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá 10 lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Hình thức đầu tư này rất phù hợp với các nhà đầu tư có nguồn vốn hạn chế. 

Việc thành lập, tổ chức và vận hành các tổ chức kinh tế nói trên được điều chỉnh bởi pháp luật về doanh nghiệp và những văn bản có liên quan. 

Thứ hai: Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế nhiều chủ sở hữu

Hình thức này mang lại cho nhà đầu tư nhiều sự lựa chọn. Theo đó, các nhà đầu tư có thể thỏa thuận hợp tác và cùng nhau thành lập tổ chức kinh tế mới. Quan hệ thành lập doanh nghiệp có thể diễn ra giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư nước ngoài. Với sự phát triển của hoạt động kinh tế quốc tế, việc đầu tư, liên kết giữa các nhà đầu tư ở các quốc gia khác nhau là điều tất yếu để có thể nâng cao khả năng huy động vốn và tăng khả năng cạnh tranh. Theo pháp luật hiện hành, các nhà đầu tư có thể lựa chọn thành lập các tổ chức kinh tế sau: các loại hình doanh nghiệp bao gồm công ty hợp danh, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn – ba mô hình doanh nghiệp được điều chỉnh bằng Luật Doanh nghiệp năm 2014; mô hình hợp tác xã được điều chỉnh bằng Luật hợp tác xã năm 2012. 

Một là, công ty hợp danh. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn; Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.

Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào’. Với mô hình này, nhà đầu tư sẽ đóng vai trò là thành viên hợp danh bởi chỉ thành viên hợp danh mới có quyền quản lý điều hành, còn thành viên góp vốn không được tham gia quản lý công ty. Tuy nhiên, thành viên hợp danh chịu trách nhiệm tài sản vô hạn – đây là một vấn đề phức tạp mà các nhà đầu tư cần xem xét kỹ trước khi lựa chọn mô hình này. 

Hai là, công ty cổ phần. Tại Điều 110 Luật Doanh nghiệp năm 2014, công ty cổ phần được nhận diện là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cđông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa: Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn. Khi thành lập doanh nghiệp, nhiều nhà đầu tư đã lựa chọn thành lập công ty cổ phần vì dễ dàng gia nhập, chuyển nhượng vốn tự do, khả năng huy động vốn lớn. 

Ba là, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong đó: Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá 50; Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 48 của Luật Doanh nghiệp năm 2014; Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các Điều 52, 53 và 54 của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được quyền phát hành cổ phần (Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014). 

Bốn là, hợp tác xã. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Nhà đầu tư có thể tham gia góp vốn vào hợp tác xã nhưng không quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã. 

Như vậy, mỗi mô hình tổ chức kinh tế đều có những ưu và nhược điểm nhất định. Nhà đầu tư trong và ngoài nước được tự do lựa chọn các mô hình này để thành lập căn cứ vào nhu cầu và năng lực tài chính. 

Thứ ba: Điều kiện để thành lập tổ chức kinh tế

– Đối với nhà đầu tư trong nước

Điều kiện thành lập tổ chức được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản có liên quan.

– Đối với nhà đầu tư nước ngoài 

Để thành lập tổ chức kinh tế tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện sau: (i) Nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và (ii) Hạn chế tỷ lệ sở hữu vốn trong tổ chức kinh tế theo Luật định. 

+ Về thủ tục. Trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều 37 của Luật Đầu tư năm 2014. (Tại Luật Đầu tư năm 2005 trước đây, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp). 

+ Về tỷ lệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp. Nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế, trừ các trường hợp sau đây: 

– Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty niêm yết, công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán; 

– Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu theo hình thức khác thực hiện theo quy định của pháp luật về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước; 

– Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài không thuộc quy định hai trường hợp trên thực hiện theo quy định khác của pháp luật có liên quan và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 

Mặc dù nhà đầu tư nước ngoài được quyền thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam nhưng bị khống chế tỷ lệ sở hữu góp vốn trong những ngành nghề nhất định. Điều này xuất phát từ những mục đích, lợi ích kinh tế, chính trị xã hội và sâu xa hơn là yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng, độc lập dân tộc.

Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế 

Bên cạnh hình thức đầu tư thành lập mới tổ chức kinh tế, các nhà đầu tư có thể tiến hành đầu tư theo hình thức góp vốn vào các tổ chức kinh tế mới (nhưng không giữ vai trò thành lập) hoặc mua cổ phần, phần vốn góp vào các tổ chức kinh tế đã thành lập hợp pháp và đang tiến hành hoạt động kinh doanh. Có nghĩa, việc góp vốn, mua cổ phần diễn ra khi tổ chức kinh tế đã tồn tại.

Việc góp vốn, mua cổ phần không nhằm mục đích thành lập doanh nghiệp mà hướng tới mục tiêu mở rộng quy mô (tăng vốn điều lệ) hoặc chỉ thay đổi nhà đầu tư trong tổ chức kinh tế. Với hình thức đầu tư này, nhà đầu tư không tốn nhiều thời gian, công sức và tài chính để thành lập một tổ chức kinh tế mới mà chỉ cần bỏ một nguồn vốn nhất định là đã trở thành thành viên của công ty. Tư cách thành viên đem lại cho nhà đầu tư quyền quản lý, quyền hưởng lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp trong tổ chức kinh tế. 

Về phạm vi, nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, không phân biệt đối xử được góp vốn, mua cổ phần vào các tổ chức kinh tế sau: công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, hợp tác xã. 

Về quy chế pháp lý, việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, không phân biệt đối xử, được thực hiện theo quy định chung tại pháp Luật Doanh nghiệp và hợp tác xã. Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài có một số quy định riêng về hình thức và điều kiện góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp. Cụ thể, về hình thức góp vốn, nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây: Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của công ty cổ phần; Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; Góp vốn vào tổ chức kinh tế khác.

Về hình thức mua cổ phần, phần vốn góp, nhà đầu tư nước ngoài thực hiện theo các hình thức sau đây: Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hoặc cổ động; Mua phần vốn góp của các thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn; Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh; Mua phần vốn góp của thành viên tổ chức kinh tế khác.

Về điều kiện, việc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài bị khống chế tỷ lệ mua trong những trường hợp nhất định theo khoản 1 và khoản 2 Điều 22 Luật Đầu tư năm 2014. Các hạn chế này tương tự như hạn chế tỷ lệ góp vốn nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp và đã được phân tích ở trên.

Đầu tư theo hình thức hợp đồng

Trên thế giới, hợp đồng đối tác công ty không phải là khái niệm mới bởi nhiều quốc gia đã áp dụng hình thức đầu tư này từ nhiều năm. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về mặt lý luận. Bởi lẽ trên thực tế, mô hình, phương thức và các nội dung của hợp tác công – tư được xây dựng và tiếp cận theo những phạm vi và cách thức khác nhau, tùy thuộc vào các yếu tố về lịch sử, văn hóa, chính sách, luật pháp, và mức độ phát triển của từng quốc gia nên tại 

mỗi quốc gia cách hiểu về thuật ngữ này có đặc trưng riêng.

Tại Việt Nam, hợp đồng đối tác công ty được tiếp cận là một hình thức đầu tư (gọi tắt là hợp đồng PPP – public private partnership), là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công. Chính phủ quy định chi tiết lĩnh vực, điều kiện, thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP. Như vậy, hợp đồng PPP là thỏa thuận hợp tác giữa Nhà nước và khu vực tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công, theo đó một phần hoặc toàn bộ công việc sẽ được chuyển giao cho khu vực tư nhân thực hiện với sự hỗ trợ của Nhà nước. 

Các hợp đồng BOT ( xây dựng – kinh doanh – chuyển giao của Việt Nam; Build – Operate – Transfer), Hợp đồng BTO (Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh; Build – Transfer – Operate), Hợp đồng BT (Xây dựng chuyển giao; Build – Transfer) được quy định tại Luật Đầu từ năm 2005 là những hợp đồng có bản chất là hợp đồng PPP. Đến Luật Đầu tư năm 2014, các hình thức này không bị xóa bỏ mà được khái quát hóa trở thành một trong các dạng của hợp đồng PPP.. 

Về vai trò, hợp đồng PPP có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư tư nhân vào xây dựng hạ tầng, các công trình thiết yếu. Thay vì phải bỏ vốn toàn bộ, thông qua hợp đồng PPP, Nhà nước đã thu hút vốn đầu tư tư nhân vào xây dựng. Nhà nước áp dụng chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cho nhà đầu tư để nhận lại hệ thống cơ sở hạ tầng thông qua các phương thức chuyển giao quyền sở hữu từ nhà đầu tư. Trên khía cạnh kinh tế, hợp đồng PPP giúp Nhà nước tiết kiệm vốn đầu tư nhưng vẫn đảm bảo phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng toàn diện các địa phương trong những lĩnh vực cụ thể. 

Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC 

Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi là hợp đồng BCC, Business Cooperation Contract) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm 

mà không thành lập tổ chức kinh tế. TƯ Về chủ thể, hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau hoặc giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng chủ thể trong từng hợp đồng không giới hạn, tùy thuộc vào quy mô dự án và nhu cầu, khả năng mong muốn của các nhà đầu tư. Nếu hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước thì thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Trường hợp hợp đồng BCC được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài thì thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều 37 của Luật Đầu tư năm 2014. 

Về vai trò, lợi ích của hình thức đầu tư này là dễ tiến hành, dự án triển khai nhanh, thời hạn đầu tư không bị kéo dài, nhà đầu tư có thể sớm thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh do không mất thời gian thực hiện thủ tục thành lập pháp nhân và đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất mới. Tại Việt Nam, hình thức hợp đồng BCC có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động phát triển mạng lưới viễn thông. Với phương châm lấy ngoài nuôi trong, lãnh đạo ngành Bưu điện đã chọn viễn thông quốc tế làm khâu đột phá, tạo tiền đề phát triển mà khởi đầu là hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC giữa Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam và Telstra (Úc). Mạng lưới viễn thông của Việt Nam trước khi có BCC rất nghèo nàn về trang thiết bị và công nghệ nhưng sau khi có BCC, có khoảng 500 dự án viễn thông lớn nhỏ được triển khai, hình thàng mạng lưới viễn thông hiện đại. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (5 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Mã ngành nghề kinh doanh quán cà phê là mã nào?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ thắc mắc: Mã ngành nghề kinh doanh quán cà phê là mã...

Mã ngành nghề kinh doanh dịch vụ spa là mã nào?

Mã ngành nghề kinh doanh dịch vụ spa là mã nào? Khi có thắc mắc này, Quý vị đừng bỏ qua những chia sẻ của chúng tôi trong bài...

Thỏa thuận góp vốn có cần lập vi bằng không?

Thỏa thuận góp vốn có cần lập vi bằng không? Khi có thắc mắc này, Quý vị có thể tham khảo nội dung bài viết này của chúng...

Có được gia hạn thời gian góp vốn điều lệ công ty không?

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp giải đáp: Có được gia hạn thời gian góp vốn điều lệ công ty không? Mời Quý vị theo dõi, tham...

Mức phạt chậm góp vốn điều lệ mới nhất

Chậm góp vốn điều lệ sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, đồng thời phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng số vốn đã...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi