Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự mới nhất
  • Thứ tư, 06/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 11376 Lượt xem

Tư vấn phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự mới nhất

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

Trên thực tế, một tội phạm có thể không được thực hiện một cách trọn vẹn do nguyên nhân chủ quan từ phía người phạm tội hoặc các nguyên nhân khác. Vậy với những trường hợp này, hình phạt với người phạm tội có gì khác so với trường hợp tội phạm hoàn thành? Trong phạm vi bài viết sau đây về phạm tội chưa đạt, Luật Hoàng Phi sẽ phần nào sẽ giúp Quý độc giả giải đáp được thắc mắc này.

Phạm tội chưa đạt là gì?

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội, người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. theo Điều 15 Bộ Luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về phạm tội chưa đạt.

Tư vấn về tội phạm chưa đạt theo quy định Bộ luật hình sự

Theo Bộ luật Hình sự quy định có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt.

+ Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: Người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.

Ví dụ: Người phạm tội đã dùng dao đâm người bị hại.

+ Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng, nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Cụ thể là có thể xảy ra ở một trong những dạng dưới đây:

– Người phạm tội chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện được “hành vi liền trước”. Ví dụ: Người phạm tội giết người mới chỉ bỏ thuốc độc vào ly nước thì bị phát hiện, bắt giữ.

– Người phạm tội đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây hậu quả của tội phạm. Ví dụ: Người phạm tội đã chém được nạn nhân nhưng nạn nhân không chết.

– Người phạm tội đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện hết. Ví dụ: Người phạm tội hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện được việc giao cấu thì bị phát hiện, bắt giữ.

+ Dấu hiệu thứ ba: Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do:

(i) Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại được hoặc đã tránh được;

(ii) Do người khác đã ngăn chặn được;

(iii) Có những trở ngại khác (như bắn súng nhưng đạn không nổ; thuốc độc không đủ liều lượng để giết người…)

Tuy việc phạm tội chưa đạt nhưng về tính nguy hiểm là đáng kể bởi hành vi mà người phạm tội thực hiện là do cố ý và hậu quả xảy ra không lớn hoặc chưa xảy ra hoàn toàn do nguyên nhân khách quan và trái với mong muốn của người phạm tội, vì vậy họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện.

Tổng đài 19006557 tư vấn nhanh về phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự mới

Trên thực tế, rất nhiều tội phạm không được thực hiện thành công, tuy nhiên, không phải trường hợp nào người thực hiện hành vi phạm tội cũng được xác định là phạm tội chưa đạt. Do thiếu chuyên môn, kinh nghiệm về pháp luật hình sự, nhiều người bị nhầm lẫn giữa tội phạm chưa đạt và các trường hợp khác như chuẩn bị phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội,… Hiểu được điều này, Luật Hoàng Phi đã và đang triển khai Tổng đài tư vấn 19006557 để hỗ trợ các vấn đề pháp lý về hình sự, trong đó có hỗ trợ về phạm tội chưa đạt. Khi tiếp nhận thắc mắc của khách hàng, chúng tôi sẽ:

– Xác định, làm rõ trường hợp phạm tội chưa đạt;

– Phân biệt phạm tội chưa đạt với các dạng tội phạm chưa hoàn thành khác;

– Tư vấn trách nhiệm hình sự với tội phạm cụ thể nếu phạm tội chưa đạt;

– Định hướng các vấn đề như tố giác tội phạm, bồi thường thiệt hại, tham gia tố tụng hình sự,…


Quý độc giả cũng tham khảo một số bài viết khác tại mục HỎI – ĐÁP về nội dung có liên quan đến bài viết trên như:

Phạm tội hiếp dâm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

Kính gửi Luật Hoàng Phi, nhờ luật sư tư vấn giúp tôi vấn đề sau:

Vào thời điểm đó bạn tôi 19 tuổi, tối ngày 14/07/2018, H là hàng xóm nhà bạn tôi ở chòi giữ vườn một mình. Hắn nhìn qua nhà bạn tôi, thấy đèn nhà bạn tôi đang sáng và lúc đó bạn tôi đang nằm trên giường nghe nhạc nên H có ý định hiếp dâm bạn tôi. Quan sát không thấy ai, H liền bỏ đèn pin ở gốc dừa, cầm dao đi đến cửa sổ, lúc đó tôi đang nằm quay vào trong. H đẩy cửa trước nhưng không được vì trước đó bạn tôi đã khóa. H đi vòng cửa sau, vào nhà đến bên chiếc giường nơi bạn tôi đang nằm, hắn đặt dao lên đầu giường, dỡ mùng lên thì bị phát hiện, bạn tôi vô cùng hoảng sợ và la lên “bớ làng xóm! Bớ làng nước ơi!”. Sợ bị lộ, H nhào tới bóp cổ, đè sấp bạn tôi xuống, sau đó hắn ngồi đè lên bụng bạn tôi và tiếp tục bóp cổ bạn tôi đến lúc không còn thấy bạn tôi phản kháng. Hàng xóm xung quanh đã chạy đến kịp thời và ngăn chặn được hành vi phạm tội của H. Vì hành vi trên, H bị tòa án xử phạt tù chung thân về tội giết người và 3 năm tù về tội hiếp dâm. Việc xét xử tội hiếp dâm của Tòa án đối với H là đúng hay sai?

Trả lời:

Về câu hỏi phạm tội hiếp dâm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Luật sư tư vấn về hình sự trả lời bạn như sau:

Thời điểm xảy ra vụ việc là vào 14/7/2018 khi Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành. Theo đó, căn cứ Điều 15 Bộ luật hình sự 2015 quy định về trường hợp phạm tội chưa đạt như sau:

Điều 15. Phạm tội chưa đạt

Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.

Điều 141 Bộ luật hình sự quy định về tội hiếp dâm như sau:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

c) Nhiều người hiếp một người;

d) Phạm tội 02 lần trở lên;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Có tính chất loạn luân;

g) Làm nạn nhân có thai;

h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát

4. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Căn cứ vào những quy định trên, trong trường hợp này H đã phạm tội hiếp dâm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Người phạm tội này sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm (khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự). Vì H phạm tội ở giai đoạn chưa đạt nên hình phạt không quá mức ¾ mức hình phạt nói trên (Điều 57 Bộ luật hình sự). Như vậy căn cứ vào các quy định trên, Tòa án xử phạt T ba năm tù về tội hiếp dâm là hoàn toàn chính xác.

Đánh giá bài viết:
5/5 - (17 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi