Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Án treo là gì? Khi nào được hưởng án treo? 
  • Thứ ba, 05/09/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 433 Lượt xem

Án treo là gì? Khi nào được hưởng án treo? 

Người được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù nhưng phải tuân thủ các quy định về án treo trong thời gian nhất định (thời gian thử thách).

Án treo là gì?

Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù.

Điều kiện để hưởng án treo là gì?

Điều 65. Án treo

1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

3. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.

4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

5. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này. 

Bình luận về án treo theo quy định của BLHS

Điều luật quy định về án treo, đó là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Người được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù nhưng phải tuân thủ các quy định về án treo trong thời gian nhất định (thời gian thử thách). Nếu trong thời gian này, người bị kết án không vi phạm các quy định về án treo thì họ được miễn việc chấp hành hình phạt tù. 

Khoản 1 của điều luật quy định các điều kiện cho hưởng án treo. Theo đó, người bị kết án phạt tù được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây: 

– Về mức phạt tù Án treo được áp dụng đối với người bị kết án phạt tù không quá 03 năm. Đây cũng có thể được hiểu là điều kiện về mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Án treo được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có mức độ nguy hiểm hạn chế nên bị phạt tù không quá 03 năm.

Điều kiện này không đòi hỏi tội phạm đã thực hiện thuộc loại tội gì theo phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS. Quy định về điều kiện này đồng thời cũng là quy định về giới hạn phạm vi áp dụng án treo. 

– Về nhân thân người phạm tội: Điều luật không xác định nhân thân như thế nào thì được hưởng án treo. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu “… xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù …” đòi hỏi người phạm tội phải có nhân thân tốt như đã được hướng dẫn.

Theo đó, án treo được áp dụng đối với người phạm tội có nhân thân tốt, tức là ngoài lần phạm tội này họ là người tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công tác;

Không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật. Tuy nhiên, án treo cũng được hướng dẫn có thể áp dụng nhưng phải hết sức chặt chẽ đối với trường hợp người phạm tội có nhân thân không phải là nhân thân tốt.

Đó là trường hợp người phạm tội (có án tích nhưng đã được xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích) được coi là chưa bị kết án và trường hợp người phạm tội (đã bị xử lý hành chính, xử lý kỉ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỉ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật) được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật.

Người phạm tội có nhân thân tốt chứng tỏ họ có khả năng tự giáo dục, cải tạo và đó là cơ sở để tin tưởng rằng, chỉ cần dựa vào sự giúp đỡ của gia đình, chính quyền và xã hội vẫn có thể giáo dục, cải tạo được người phạm tội và ngăn ngừa họ phạm tội mới mà không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. 

– Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án treo được hướng dẫn áp dụng đối với người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau:

+ Có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS; 

+ Có từ 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, nếu có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. 

– Về điều kiện không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù: Điều kiện này đòi hỏi người phạm tội phải có khả năng tự cải tạo và việc không bắt họ chấp hành hình phạt tù không ảnh hưởng xấu đến phòng, chống tội phạm. Đây là điều kiện có tính quy kết từ các điều kiện trên.

Căn cứ vào nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ mà xét thấy có cơ sở để tin rằng vẫn đạt được mục đích giáo dục, cải tạo mà không cần cách ly người bị kết án khỏi môi trường xã hội và việc không cách ly này không trái với yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm.

Với nội dung như vậy, điều kiện này được coi là điều kiện quyết định cho phép áp dụng án treo. Khi cho hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm.

Đây là thời gian cần thiết, một mặt để tạo cơ hội và khuyến khích người bị kết án phạt tù tự giác giáo dục, cải tạo với sự giúp đỡ của gia đình và xã hội, mặt khác để kiểm nghiệm – nhận định cho rằng vẫn giáo dục, cải tạo được người bị kết án phạt tù mà không cần thiết buộc họ phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên.

Thời gian thử thách được ấn định chủ yếu dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thể hiện ở mức phạt tù cũng như vào khả năng tự giáo dục, cải tạo của người phạm tội. 

Giữa thời gian thử thách và mức phạt tù có mối tương quan với nhau. Vấn đề này không được điều luật quy định cụ thể. Nhưng căn cứ vào bản chất pháp lý của án treo thì thời gian thử thách phải dài hơn mức phạt tù đã tuyên. Đã có hướng dẫn xác định thời gian thử thách bằng 2 lần mức phạt tù đã tuyên nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong Luật thi hành án hình sự. Theo Điều 64 của Luật này, các nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải tuân thủ là:

Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập;

Chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; phải có mặt theo yêu cầu của Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục;

Trường hợp người được hưởng án treo đi khỏi nơi cư trú từ 01 ngày trở lên thì phải khai báo tạm vắng; 03 tháng một lần trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phải nộp bản tự nhận xét về việc chấp hành pháp luật cho người trực tiếp giám sát, giáo dục;

Trường hợp đi khỏi nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng thì phải có nhận xét của Công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú để trình với Uỷ ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người đó. 

– Về thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách, BLHS không quy định cụ thể. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách được hướng dẫn là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo.

Đó có thể là ngày tuyên án sơ thẩm hoặc ngày tuyên án phúc thẩm trong trường hợp các bản án cho hưởng án treo có hiệu lực pháp luật, còn trong trường hợp người bị kết án có nhiều bản án cho hưởng án treo (bản án cấp sơ thẩm và bản án cấp phúc thẩm) thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo, 

Khoản 2 của điều luật quy định người được hưởng án treo phải chịu sự giám sát và giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú và của gia đình (trong sự phối hợp) trong suốt thời gian thử thách.

Cụ thể, nếu người được hưởng án treo là cán bộ, công chức hoặc đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo mà vẫn được tiếp tục làm việc, học tập, thì chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý họ;

Người được hưởng án treo là quân nhân, công nhận quốc phòng mà vẫn được tại ngũ thì chịu sự giám sát, giáo dục của đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên;

Nếu người được hưởng án treo là người lao động làm công ăn lương mà vẫn được tiếp tục làm việc thì chịu sự giám sát, giáo dục của doanh nghiệp, hợp tác xã nơi họ làm việc;

Nếu người được hưởng án treo không phải các đối tượng trên thì chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo thường trú.

Khoản 2 của điều luật còn xác định trách nhiệm phối hợp của gia đình người được hưởng án treo. Theo đó, gia đình phải phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo hiệu quả của án treo. 

Khoản 3 của điều luật quy định Tòa án có thể quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo (nếu điều luật được áp dụng cho phép).

Quy định này nhằm tăng cường nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải thực hiện trong thời gian thử thách để nâng cao hiệu quả của án treo. 

Khoản 4 của điều luật quy định về việc giảm thời gian thử thách. Theo đó, thời gian thử thách được ấn định đối với người được hưởng án treo có thể được Tòa án rút ngắn khi họ có đủ các điều kiện sau: 

– Đã chấp hành được 1/2 thời gian thử thách; 

– Có nhiều tiến bộ, được thể hiện ở việc chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ của người được hưởng án treo; chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước;

Nội quy, quy chế nơi làm việc; tích cực lao động, học tập và sửa chữa lỗi lầm; thực hiện đầy đủ các hình phạt bổ sung và các nghĩa vụ khác theo quyết định của bản án; 

– Có đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Cụ thể là được Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.

Khi có đủ các điều kiện nêu trên người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử nhiều lần, nhưng mỗi năm chỉ được rút ngắn thời gian thử thách một lần từ 01 tháng đến 01 năm mà phải bảo đảm thực tế chấp hành thời gian thử thách là 3/4 thời gian thử thách Tòa án đã tuyên.

Khoản 5 của điều luật quy định trường hợp người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên. 

Để được miễn chấp hành hình phạt tù, người được hưởng án treo phải tự giác giáo dục, cải tạo, phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thử thách và đặc biệt không phạm tội mới trong thời gian thử thách.

Chỉ khi thỏa mãn các ràng buộc này thì việc cho miễn chấp hành hình phạt tù mới có ý nghĩa và án treo mới đạt được mục đích đặt ra. Theo đó, điều luật quy định 02 trường hợp mà người được hưởng án treo có thể phải hoặc phải chấp hành hình phạt tù. Cụ thể: 

– Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Điều 64 Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên (đối với trường hợp này, Tòa án có thể quyết định buộc phải 

chấp hành hình phạt tù); 

– Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội mới (đối với trường hợp này, Tòa án quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo đồng thời phải tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt về tội mới thực hiện). 

Xét về yêu cầu nội dung thử thách và hậu quả của việc vi phạm điều kiện thử thách của án treo cho thấy, quy định của BLHS năm 2015 về án treo thể hiện tính nghiêm khắc hơn so với quy định của BLHS năm 1999. 

Đánh giá bài viết:
5/5 - (6 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi