Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tư vấn Luật Hình sự Đưa hình ảnh người cho vay tiền không trả lên mạng xã hội có phạm tội?
  • Thứ ba, 29/08/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 6896 Lượt xem

Đưa hình ảnh người cho vay tiền không trả lên mạng xã hội có phạm tội?

Trường hợp người bị đăng hình ảnh là người có vay tiền và có trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP.

Đăng ảnh người nợ tiền lên mạng xã hội là hành vi khá phổ biến hiện nay. Vậy việc Đưa hình ảnh người cho vay tiền không trả lên mạng xã hội có phạm tội? Khách hàng quan tâm, vui lòng theo dõi nội dung bài viết để có thêm thông tin chi tiết.

>>>>>> Tham khảo: Thủ tục xin giấy phép mạng xã hội

Tự ý đăng ảnh người khác lên Facebook đòi nợ có vi phạm pháp luật?

Theo Điều 32 của Bộ luật Dân sự năm 2015, cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Vì vậy, khi người khác muốn sử dụng hình ảnh của cá nhân thì bắt buộc phải được người đó cho phép.

Đặc biệt, nếu sử dụng hình ảnh vì mục đích thương mại hoặc để quảng cáo, người sử dụng còn phải trả tiền cho cá nhân có hình ảnh. Vì vậy, việc chủ nợ tự ý lấy ảnh của con nợ đăng lên các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, Zalo… nhằm ép buộc, gây áp lực cho người vay phải trả nợ thì đều là hành vi vi phạm pháp luật và xâm phạm trực tiếp đến quyền hình ảnh của người vay.

Thậm chí, nhiều trường hợp nạn nhân trong những trường hợp này còn có thể không phải người vay mà là bạn bè, người thân, đồng nghiệp… của người vay. Bởi khi vay tiền ở các công ty tài chính hoặc các app, người vay phải cung cấp thông tin và số điện thoại của người thân, bạn bè… để tham chiếu.

Vì vậy, khi mà người vay không trả được nợ, các công ty tài chính hoặc các app sẽ đòi nợ từ bạn bè, người thân,… này. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc nhiều người không vay tiền nhưng liên tục bị đòi nợ, thậm chí là bêu ảnh, đăng ảnh, chế ảnh… lên các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo… nhằm ép người này phải trả nợ thay cho người vay.

Như vậy dù là đăng ảnh người vay tiền hay người thân, bạn bè, đồng nghiệp,… của người vay tiền để đòi nợ thì tuỳ vào tính chất, mức độ hành vi mà người cho vay có thể bị xử phạt hành chính hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự

Xử lý hành chính với việc Đưa hình ảnh người cho vay tiền không trả lên mạng xã hội

Trường hợp người bị đăng hình ảnh là người có vay tiền và có trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP với hành vi “thu thập, và sử dụng thông tin của cá nhân khác mà không được sự đồng ý”, mức phạt tiền trong trường hợp này là từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với tổ chức vi phạm và 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm.

Trường hợp người bị đăng ảnh lên mạng xã hội không phải là người nợ tiền mà bị ghép ảnh và đe dọa, quấy rồi thì người thực hiện hành vi sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP với hành vi “chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”, mức phạt trong trường hợp này là từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với tổ chức vi phạm, 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm và buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật.

Xử lý hình sự với hành vi Đưa hình ảnh người cho vay tiền không trả lên mạng xã hội

Trường hợp người bị đăng hình ảnh là người nợ tiền thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng xã hội có thể bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về tội làm nhục người khác với hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Khung hình phạt nhẹ nhất thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, nặng thì sẽ bị phạt từ từ 03 tháng đến 02 năm.

Trường hợp người bị đăng hình ảnh lên mạng xã hội không phải là người vay tiền mà bị bịa đặt thông tin thì người thực hiện hành vi vi phạm có thể bị xử lý hình sự về tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) với hành vi bịa đặt/loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Khung hình phạt nhẹ nhất đối với hành vi này là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, nặng thì sẽ bị phạt từ từ 01 năm đến 03 năm.

Ngoài ra còn liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi Hành vi đang ảnh người khác lên mạng xã hội có thể sẽ phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác theo quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015, gồm:

– Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

– Thiệt hại khác

Không những vậy còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chiu, mức bồi thường này do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì áp dụng mức không qua 10 lần mức lương cơ sở theo quy định của nhà nước (mức lương cơ sở hiện hành là 1.800.000 đồng).

Làm thế nào khi bị người đòi nợ đăng hình ảnh lên mạng xã hội?

– Tố cáo với cơ quan công an

Để tố cáo với cơ quan công an, người bị bêu ảnh trên Facebook cần phải chuẩn bị đơn tố cáo với đầy đủ các nội dung sau: ngày tháng năm tố cáo, họ tên người tố cáo, người bị tố cáo, nội dung tố cáo về việc bị đăng ảnh lên Facebook nhằm xúc phạm nhân phẩm, danh dự của mình.

Ngoài ra, người tố cáo còn phải cung cấp các tài liệu, giấy tờ có liên quan đến việc tố cáo của mình như hình ảnh của mình bị đăng lên Facebook kèm theo thông tin về việc mình bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm…

Những hồ sơ tố cáo này, người bị đăng ảnh có thể nộp cho cơ quan công an cấp xã. Sau khi nhận được đơn, cơ quan này sẽ tiến hành điều tra, xác minh bước đầu, sau đó chuyển cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

– Khởi kiện ra Toà

Ngoài việc gửi đơn tố cáo đến cơ quan công an cấp xã, người bị đăng ảnh lên facebook để đòi nợ mà bị xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm thì còn có thể gửi đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân có thẩm quyền. Trong đơn khởi kiện tại tòa án cần nêu rõ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm là danh dự, nhân phẩm, uy tín và quyền hình ảnh của cá nhân.

Cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn khởi kiện là Toà án nhân dân cấp huyện nơi mà người tự ý đăng ảnh người khác lên Facebook đang cư trú, làm việc.

Trên đây là một số chia sẻ của Công ty Luật Hoàng Phi về việc Đưa hình ảnh người cho vay tiền không trả lên mạng xã hội có phạm tội? Khách hàng theo dõi bài viết, có vướng mắc nào khác vui lòng phản ánh trực tiếp để chúng tôi hỗ trợ được nhanh chóng, tận tình.

Đánh giá bài viết:
5/5 - (48 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi