Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Vợ lẽ có được hưởng di sản của chồng không?
  • Thứ tư, 25/05/2022 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 2696 Lượt xem

Vợ lẽ có được hưởng di sản của chồng không?

Tôi là vợ lẽ sống với chồng từ năm 1970, cùng khai hoang 1 mảnh đất. Chồng tôi chết vợ cả đến đòi lại đất. Xin hỏi luật sư như vậy có đúng không?

Nội dung câu hỏi:

Tôi về sống với nhau như vợ chồng từ với chồng tôi từ năm 1970 nhưng không đăng ký kết hôn. Lúc đó vợ cả chồng tôi ở riêng tại 1 ngôi nhà khác ( nhà đó là của chồng tôi ). Còn chồng tôi và tôi cùng khai hoang một mảnh đất rồi ở đó. Vậy xin hỏi tôi có được xác nhận là vợ hợp pháp của chồng tôi hay không? Vừa rồi chồng tôi mất đột ngột nên không để lại di chúc. Vợ cả đến đòi lại toàn bộ đất tôi đang ở. Xin hỏi như vậy có đúng không? và tôi có được được hưởng quyền lợi gì đối với ngôi nhà mà người vợ cả kia đang ở không?

Vợ lẽ có được hưởng di sản của chồng không?

 

Trả lời:

Về câu hỏi của bà chúng tôi xin được trả lời như sau:

Thứ nhất: Về câu hỏi bà có phải là vợ hợp pháp của chồng bà không?

Căn cứ vào Mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội “về việc thi hành  Luật Hôn nhân và gia đình” quy định:

“ Theo quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn”.

Như vậy, nhìn vào quy định trên thấy rằng nghĩa vụ đăng ký kết hôn chỉ đặt ra đối với trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001. Đối với trường hợp của bà do bà đã chung sống với nhau như vợ chồng với chồng bà từ năm 1970 cho nên bà được công nhận là vợ hợp pháp của chồng bà.

Thứ hai: Về quyền lợi của bà đối với căn nhà vợ cả đang ở và mảnh đất bà đang ở:

Căn cứ vào điều 66 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định như sau:

“1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế…”

–  Căn cứ vào khoản 1 điều 33 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung vợ chồng:

“ 1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Như vậy quyền sử dụng mảnh đất bà đang ở là tài sản chung vợ chồng và ngôi nhà của vợ cả đang ở là tài sản riêng của chồng bà.

–  Đối với mảnh đất bà đang ở:  bà quyền định đoạt đối với 1/2 giá trị quyền sử dụng đất đó.

–  Đối với 1/2 giá trị quyền sử dụng đất còn lại và ngôi nhà mà vợ cả đang ở:

Căn cứ vào Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

Như vậy đối với 1/2 giá trị mảnh đất còn lại và ngôi nhà của chồng bà ( người vợ cả đang ở)  là tài sản thừa kế và bà cùng người vợ cả cũng như những người khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất được hưởng.

Do đó việc người vợ cả đòi toàn bộ giá trị mảnh đất nơi bà đang ở theo thông tin bạn cung cấp là không có cơ sở.

Ngoài ra như đã phân tích ở trên bà còn có quyền thừa kế đối với 1 phần giá trị tài sản là ngôi nhà hiện người vợ cả đang ở nếu ngôi nhà đó được xác định là tài sản thừa kế do chồng bà để lại.

Trong trường hợp cần tư vấn thêm, bạn có thể liên hệ với Luật sư của Luật Hoàng Phi qua TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT 19006557 để được tư vấn.

Đánh giá bài viết:
5/5 - (1 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào?

Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn được hiểu như thế nào? Cùng chúng tôi tìm hiểu để có thêm thông tin giải đáp qua bài viết này...

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu?

Thời gian thử việc đối với trình độ đại học là bao lâu? là thắc mắc được chúng tôi chia sẻ, làm rõ trong bài viết này. Mời Quý vị theo dõi, tham...

Mã ngành nghề kinh doanh quán cà phê là mã nào?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ thắc mắc: Mã ngành nghề kinh doanh quán cà phê là mã...

Mã ngành nghề kinh doanh dịch vụ spa là mã nào?

Mã ngành nghề kinh doanh dịch vụ spa là mã nào? Khi có thắc mắc này, Quý vị đừng bỏ qua những chia sẻ của chúng tôi trong bài...

Thỏa thuận góp vốn có cần lập vi bằng không?

Thỏa thuận góp vốn có cần lập vi bằng không? Khi có thắc mắc này, Quý vị có thể tham khảo nội dung bài viết này của chúng...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi