Quy định của pháp luật về tặng cho bất động sản
Chồng tôi được bà ngoại tặng cho một mảnh đất. Sau khi bà mất, bác của chồng tôi tức con của bà đến đòi chia đôi đất. Xin hỏi như vậy đúng không?
Nội dung câu hỏi: Năm 2013, Chồng tôi được bà ngoại tặng cho 1 mảnh đất và làm thủ tục đầy đủ đồng thời chồng tôi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2014, bà ngoại chồng tôi mất nhưng không để lại di chúc. Bác Giang là bác của chồng tôi ( tức con của bà ngoại) đến đòi chồng tôi chia một nửa mảnh đất vì bảo đây là di sản thừa kế phải chia. Xin hỏi luật sư như vậy có đúng không?
Trả lời:
Về câu hỏi của bạn chúng tôi xin được trả lời như sau:
Căn cứ vào Điều 465 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về Hợp đồng tặng cho tài sản như sau: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận.”
Như vậy, ở đây, bà ngoại chồng bạn có toàn quyền tặng cho tài sản thuộc quyền sở hữu của bà cho người khác mà không cần sự đồng ý của bất kỳ ai mà chỉ cần có sự đồng ý của người được tặng cho trong trường hợp này là chồng bạn.
Theo như thông tin bạn cung cấp thì tài sản mà bà ngoại tặng cho chồng bạn 1 mảnh đất tức là bất động sản vậy căn cứ theo Điều 467 Bộ luật Dân sự 2005 về tặng cho bất động sản như sau:
“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.”
Theo như thông tin bạn cung cấp thì việc tặng cho được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 467 nêu trên thì Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký. Như vậy, kể từ thời điểm chồng bạn được cấp GCNQSDĐ thì việc tặng cho mảnh đất giữa bà ngoại chồng bạn cho chồng bạn đã hoàn tất, không ai có quyền tranh chấp mảnh đất đó với chồng bạn.
Như vậy việc đòi đất của Bác Giang là sai.
Trong trường hợp cần tư vấn thêm, bạn có thể liên hệ với Luật sư của Luật Hoàng Phi qua TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT 19006557 để được tư vấn.
ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU
BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Luật sư có được nhận hứa thưởng không?
Luật sư không được nhận hứa thưởng, không được ký hợp đồng với khách hàng trong đó có điều khoản hứa thưởng vì đây là trường hợp vi phạm điều cấm của Luật Luật sư và Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật...

Luật sư có được xăm hình, nhuộm tóc không?
Xăm hình, nhuộm tóc không phải là hành vi bị cấm theo quy định của Luật Luật sư. Việc xăm hình, nhuộm tóc không ảnh hưởng đối với những người làm và hành nghề...

Luật sư được tham gia bào chữa từ giai đoạn nào?
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm...

Luật sư có được bào chữa cho người thân không?
Luật sư sẽ là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào...

Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất áp dụng thời hiệu theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015 là thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm...
Xem thêm