Trang chủ Tìm hiểu pháp Luật Tục bắt vợ của người Mông có vi phạm pháp luật?
  • Thứ năm, 31/08/2023 |
  • Tìm hiểu pháp Luật |
  • 2622 Lượt xem

Tục bắt vợ của người Mông có vi phạm pháp luật?

Theo luật pháp nước ta, “cướp vợ” là hành vi cưỡng ép kết hôn thuộc các hành vi cấm kết hôn được quy định tại Khoản 2, Điều 5, Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Các dân tộc ở nước ta có nhiều phong tục tập quán đa dạng, một trong số đó có tục bắt vợ của người Mông, liên quan đến phong tục này, nhiều người đặt câu hỏi Tục bắt vợ của người Mông có vi phạm pháp luật.

Trong bài viết này, chúng tôi xin chia sẻ đến bạn đọc những nội dung liên quan đến câu hỏi Tục bắt vợ của người Mông có vi phạm pháp luật.

Giới thiệu về tục bắt vợ của người Mông

Phong tục bắt vợ của người Mông hình thành là một nét văn hóa đẹp đẽ với mục đích tích cực, đó được coi là một giải pháp khá hiệu quả cho những đôi trai gái yêu nhau tha thiết nhưng lại gặp phải trở ngại từ phía gia đình. Khi đó, kế hoạch “bắt vợ” được bàn bạc bí mật, có sự hỗ trợ của anh em, bạn bè, cô bác. Cô gái đi làm nương, chàng trai bất ngờ xuất hiện cùng bạn bè ra sức kéo cô gái về làm vợ. Dù tất cả đều “nằm trong kế hoạch” nhưng cô gái vẫn cố gắng la hét, kêu cứu. Sau đó phía nhà trai sẽ bắt gà làm phép theo như truyền thống rồi đưa cô gái vừa bị “bắt” vào nhà.

Khi mọi chuyện xong xuôi, nếu gia đình cô gái có biết thì mọi sự cũng đã rồi, cha mẹ cô gái chỉ còn biết bấm bụng chấp nhận. Bởi theo quan niệm của họ, nhà trai đã dùng gà làm phép thì con gái mình đã trở thành người nhà khác, chết làm ma nhà người. Kể từ đó nhà mình không có quyền can thiệp vào nữa. Như vậy, đôi trai gái sẽ không phải chịu rào cản từ gia đình mà không đến được với nhau. Như vậy, nhờ tục bắt vợ mà họ được tự do lựa chọn hạnh phúc của mình.

Tuy nhiên, sau đó có nhiều người lại lợi dụng tục bắt vợ để thực hiện việc cưỡng ép, tước bỏ quyền tự do lựa chọn hành phúc của người con gái. Đây là sự biến tướng của phong tục này, làm méo mó mục đích ban đầu của nó. Trên thực tế những bé gái chỉ mới 15-16 tuổi mà không đồng ý chuyện “ép duyên” hay không hề thích người kia mà bị “bắt” về làm vợ.

Tục bắt vợ của người Mông có vi phạm pháp luật?

Theo luật pháp nước ta, “cướp vợ” là hành vi cưỡng ép kết hôn thuộc các hành vi cấm kết hôn được quy định tại Khoản 2, Điều 5, Luật hôn nhân và gia đình 2014:

” 2. Cấm các hành vi sau đây:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.”

Căn cứ vào quy định trên thì câu trả lời là tục bắt vợ của người Mông là vi phạm pháp luật. Do đó, người có hành vi cưỡng ép hôn nhân hay bắt vợ sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo Điều 55, Nghị định 157/2013/NĐ-CP:

” Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

1. Cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác.

2. Cản trở người khác kết hôn, ly hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác”.

Việc cưỡng ép kết hôn có thể bị truy cứu trách nhiệm theo Điều 181, Luật Hình sự 2015:

” Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.”

Trên đây là những nội dung mà chúng tôi muốn chia sẻ đến bạn đọc liên quan đến câu hỏi Tục bắt vợ của người Mông có vi phạm pháp luật.

Nếu có bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến Tục bắt vợ của người Mông có vi phạm pháp luật bạn đọc vui lòng liên hệ đến tổng đài 1900 6557 để được tư vấn trực tiếp.

Đánh giá bài viết:
5/5 - (6 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều...

Dùng dao đâm chết người đi tù bao nhiêu năm?

Trong trường hợp cụ thể, người dùng dao đâm chết người có thể bị truy cứu về một trong các tội khác như: Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ, Tội vô...

Vay tiền mà không trả phạm tội gì?

Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ có những chia sẻ giúp Quý vị làm rõ: Vay tiền mà không trả phạm tội gì? Mời Quý vị tham...

Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù không?

Đơn bãi là là yêu cầu rút lại yêu cầu khởi tố của người bị hại, Vậy Đã có đơn bãi nại thì người gây nạn giao thông có phải đi tù...

Đi khỏi nơi cư trú khi bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị xử lý như thế nào?

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi