Luật Hoàng Phi Là gì? Tư pháp là gì? Chức năng của tư pháp
  • Thứ năm, 13/04/2023 |
  • Là gì? |
  • 3594 Lượt xem

Tư pháp là gì? Chức năng của tư pháp

Theo thuyết tam quyền phân lập thì quyền lực nhà nước bao gồm: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó lập pháp là xây dựng pháp luật, ban hành pháp luật; hành pháp là thi hành pháp luật và tư pháp là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, xử lý các việc vi phạm pháp luật.

Tư pháp là khái niệm chỉ công việc tổ chức giữ gìn, bảo vệ pháp luật, thuộc một trong ba nhóm quyền lực nhà nước.

Để hiểu rõ hơn về những nội dung liên quan đến tư pháp, xin mời quý theo dõi bài viết Tư pháp là gì?

Tư pháp là gì?

Theo thuyết tam quyền phân lập thì quyền lực nhà nước bao gồm: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó lập pháp là xây dựng pháp luật, ban hành pháp luật; hành pháp là thi hành pháp luật và tư pháp là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, xử lý các việc vi phạm pháp luật.

Ở nước ta, quyền lực nhà nước thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, tư pháp là một trong ba quyền lực nhà nước.

Tư pháp được hiểu là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, xử lý các việc vi phạm pháp luật, cụ thể bao gồm các hoạt động xét xử của cơ quan toà án và những hoạt động của cơ quan nhà nước khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của toà án như điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp, thi hành án…

Quyền tư pháp là gì?

Khoản 2, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.

Như vậy theo quy định trên của Hiến pháp thì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp được hiểu là việc Tòa án thực hiện thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền khác bằng phương thức tố tụng tư pháp; quyền tư pháp và việc thực hiện quyền tư pháp tác động đến hành vi của con người và các quá trình phát triển xã hội.

Cải cách tư pháp là gì?

Cải cách tư pháp chính là quá trình đề cao quyền con người quyền công dân trong hoạt động tư pháp, coi con người là chủ thể là nguồn lực chủ yếu và là mục đích của sự phát triển.

Tư pháp quốc tế là gì?

Tư pháp quốc tế là hệ thống các quy tắc xử sự điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

– Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ về nhân thân, tài sản trong các lĩnh vực về hôn nhân gia đình, thương mại lao động,… dựa trên các việc giao kết bình đẳng, tự do, độc lập tài sản và tự chịu trách nhiệm.

– Có yếu tố nước ngoài được thể hiện:

+ Có một bên tham gia vào quan hệ dân sự là cá nhân nước ngoài là người mang quốc tịch nước ngoài hoặc không mang quốc tịch. Các tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập và được pháp luật nước ngoài công nhận.

+ Các bên tham gia và quan hệ dân sự là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng thực hiện các vấn đề xác lập, thực hiện, chất dứt quan hệ dân sự ngoài lãnh thổ Việt Nam.

+ Các đối tượng trong quan hệ dân sự ở nước ngoài, công dân, pháp nhân Việt Nam.

– Khi giải quyết các vấn đề trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài như trên các chủ thể có thể áp dụng theo cách thức:

+ Quy định về các biện pháp cụ thể khi các bên giao kết hợp đồng, là căn cứ để thực hiện giải quyết các tranh chấp sau này. Việc này sẽ giúp cho các chủ thể giải quyết tranh chấp một các dễ dàng hơn.

+ Không có quy định cụ thể về các quy tắc xử sự trong giao kết hợp đồng mà chỉ quy định về pháp luật sẽ được áp dụng. Giúp cho các quy phạm pháp luật về vấn đề được bao quát hơn.

Nguồn tư pháp quốc tế?

Nguồn tư pháp quốc tế là bao gồm những văn bản quy định các quy tắc xử sự, áp dụng để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

Nguồn tư pháp quốc tế bao gồm:

– Các điều ước quốc tế mà Việt Nam có tham gia có vai trò vô cùng quan trọng, chứa đựng những quy phạm pháp luật là cơ sở để giải quyết các vấn đề phát sinh với các trường hợp các quốc gia cùng tham gia điều ước quốc tế.

Các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia như: WTO, Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương, AFTA, Công ước Paris, các hiệp định tương trợ tư pháp khác,…

– Pháp luật quốc gia, tức là áp dụng pháp luật điều chỉnh các vấn đề trong nước, đối với các vấn đề phát sinh có yếu tố nước ngoài

Ví dụ như Bộ luật dân sự 2015, luật hôn nhân và gia đình 2014, bộ luật lao động 2014, luật thương mại 2005,…

Việc áp dụng pháp luật quốc gia này chỉ được thực hiện trong trường hợp không có các điều ước quốc tế quy định, và các nước thống nhất lựa chọn áp dụng pháp luật quốc gia.

– Tập quán quốc tế cũng là nguồn của tư pháp quốc tế, theo đó khi có các vấn đề tranh chấp phát sinh sẽ dựa trên những quy tắc được hình thành từ lâu, áp dụng thường xuyên, và được các quốc gia công nhận để giải quyết.

– Án lệ là những bản án, quyết định của tòa án đã được ban hành sẽ là cơ sở để giải quyết các vấn đề tranh chấp sau này khi chưa có pháp luật quy định.

Quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp 2013?

Khoản 2, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Vậy tư pháp là gì? Quyền tư pháp là gì? Đây là những vấn đề còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Bài viết đưa ra một số tìm hiểu cá nhân về vấn đề này.

Trong thuật ngữ tiếng Việt, chữ “tư pháp” có tới ba nghĩa hoàn toàn khác nhau:
Trước hết, “tư pháp” là quyền xét xử . Khái niệm “tư pháp” dùng trong trường hợp này để chỉ các cơ quan tham gia vào hoạt động xét xử của nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng về dân sự giữa công dân với nhau. Cụ thể, đó là các cơ quan phụ trách công tác điều tra, công tố, xét xử để xử lý tội phạm theo trình tự tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Chữ “cải cách tư pháp” dùng hiện nay là nhằm cải cách tổ chức và hoạt động ở các cơ quan điều tra (công an) công tố (viện kiểm sát) và xét xử (tòa án).
Trong học thuyết tam quyền phân lập, nhà nước có ba quyền: lập pháp (làm pháp luật), hành pháp (thi hành pháp luật) và tư pháp, thì chữ tư pháp này được dùng để chỉ một nhánh quyền lực nhà nước phụ trách công việc xét xử và bảo vệ pháp luật. Hiểu theo nghĩa này, hiện nay chúng ta cũng có từ “lý lịch tư pháp” nghĩa là loại giấy tờ do cơ quan chuyên trách lập, ghi có hay không có các quyết định của tòa án đối với người phạm tội theo bản án của tòa án tuyên (chú ý: cơ quan phụ trách lý lịch tư pháp hiện nay lại thuộc ngành hành pháp, hành chính nói dưới đây, chứ không thuộc ngành tòa án).
“Tư pháp” còn có nghĩa là sự công bằng, pháp luật. Trong nhánh hành pháp (không phải là nhánh tư pháp như nói trên) của nhà nước, ở nhiều nước đều có ngành phụ trách các công việc liên quan đến pháp luật. Hiểu theo nghĩa này, ở nước ta hiện nay có Bộ Tư pháp (cơ quan thành viên của Chính phủ), Sở Tư pháp (cơ quan chuyên môn giúp việc cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), Phòng Tư pháp (cơ quan chuyên môn giúp việc cho UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) và các cán bộ Tư pháp – Hộ tịch giúp việc cho UBND ở cấp phường, xã, thị trấn.
Các cơ quan này phụ trách hoạt động quản lý nhà nước (hành chính) chuyên môn liên quan đến pháp luật như: công tác xây dựng và thẩm định văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; công chứng, chứng thực; hộ tịch; quốc tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; trợ giúp pháp lý; giám định tư pháp; thừa phát lại; hòa giải ở cơ sở; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; thi hành án dân sự; công tác bồi thường của Nhà nước…
Ngoài ra, chữ “tư pháp” còn có một nghĩa khác nữa là ngành luật tư . “Luật tư” (tư pháp) nghĩa là ngành luật điều chỉnh các quan hệ giữa tư nhân với nhau (như: luật dân sự hay dân luật, luật hôn nhân và gia đình, luật thương mại…) khác với “luật công” (công pháp) là ngành luật điều chỉnh các quan hệ mang tính chất nhà nước (như luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng…).
Nội dung cơ bản của thuyết tam quyền phân lập là sự phân chia ba nhánh quyền lực, trong đó lập pháp là biểu hiện ý chí chung của quốc gia, thuộc về toàn thể nhân dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân là Quốc hội. Hành pháp là việc thực hiện luật pháp được thiết lập. Tư pháp là để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và khi xử án chỉ tuân theo pháp luật. Ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp), do ba cơ quan khác nhau nắm giữ để không một cá nhân hay tổ chức nào nắm trọn vẹn quyền lực nhà nước. Điển hình như ở Mỹ, Nghị viện nắm quyền lập pháp, Chính phủ, Tổng thống nắm quyền hành pháp, Tòa án nắm quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan quyền lực công có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của các cơ quan khác. Quyền lực giữa các cơ quan này cân bằng nhau, không có loại quyền lực nào vượt trội, lớn hơn quyền lực nào. Các cơ quan quyền lực giám sát, kiềm chế, đối trọng và chế ước lẫn nhau, để không một cơ quan nào có khả năng lạm quyền.
Từ nguồn gốc hình thành trong học thuyết tam quyền thì quyền tư pháp là quyền xét xử, được thực hiện thông qua cơ quan có chức năng xét xử là Tòa án. Đây là quyền áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để xác định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp dựa trên những tình tiết khách quan của vụ việc. Thực hiện quyền tư pháp là việc pháp luật được áp dụng, được tôn trọng và được thực thi. Thực hiện quyền tư pháp là một trong những cách hữu hiệu để quyền lập pháp mang giá trị xã hội đích thực và được tôn trọng trong thực tế. Quyền tư pháp gắn với Tòa án và chỉ Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng thực hiện quyền tư pháp, vì vậy, Tòa án còn được gọi là cơ quan tư pháp và chỉ Tòa án mới là cơ quan tư pháp. Đó là quan niệm về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới, từ thời điểm hình thành học thuyết ba quyền lực cho đến hiện nay.
Ở Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân(Điều 4 Hiến pháp năm 1959 quy định). Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980, Điều 6 Hiến pháp năm 1992); trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Suốt  thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước từ năm 1945, Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(Điều 2 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2002; khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Như vậy, ở Việt Nam không có sự phân chia quyền lực, vì vậy quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam có nhiều điểm đặc thù so với nhiều quốc gia trên thế giới.
Trước Hiến pháp 2013, chưa có một văn bản pháp luật quy định cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào, điều này chỉ được thể hiện qua chủ trương của Đảng nêu trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08-NQ/TW) lần đầu tiên tiếp cận khái niệm tư pháp và cơ quan tư pháp dưới góc độ đường lối chính sách của Đảng về công tác tư pháp. Theo đó, nội dung của công tác tư pháp và cơ quan tư pháp có phạm vi rất rộng, từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49-NQ/TW) tiếp tục chỉ ra hệ thống các cơ quan tư pháp mà trọng tâm là Tòa án nhân dân thực hiện quyền xét xử; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng hình sự và các cơ quan thi hành án.
Ngoài những cơ quan tư pháp kể trên, Nghị quyết 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư, cảnh sát tư pháp, tổ chức giám định, hoạt động công chứng, thống kê tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp; Nghị quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp này như một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp là một khâu quan trọng trong công tác cải cách tư pháp.
Như vậy, theo các nghị quyết của Bộ Chính trị, các cơ quan tư pháp của Việt Nam gồm cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án. Theo đó công tác tư pháp hay hoạt động tư pháp gồm hoạt động điều tra, hoạt động truy tố, hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án. Nếu ở nhiều  nước, “Tư pháp” là xét xử và cơ quan tư pháp là Tòa án, thì ở Việt Nam, “Tư pháp” được hiểu theo nghĩa rộng, là sự trộn lẫn toàn bộ hoạt động bảo vệ pháp luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Ngoài ra, còn có các hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, đấu giá, giám định tư pháp. Hiện nay, trong nhận thức của nhiều người dân  các cơ quan tư pháp còn bao gồm các cơ quan trong Ngành Tư pháp từ trung ương đến địa phương (Bộ Tư pháp, các Sở Tư pháp và các phòng tư pháp cấp huyện).
Sự khác biệt giữa nhận thức, quan niệm về tư pháp của Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới, xuất phát từ sự khác nhau giữa cách thức tổ chức và quản lý xã hội. Nhiều nước trên thế giới tổ chức bộ máy quyền lực để quản lý xã hội theo học thuyết tam quyền phân lập, trong đó có sự phân chia quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp; các quyền này độc lập, cân bằng, có đối trọng và chế ước lẫn nhau nhằm tránh sự lạm quyền, sự độc quyền và độc tài; bảo đảm sự dân chủ, công bằng, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân được thực thi theo quy định của hiến pháp và pháp luật. Việt Nam không theo học thuyết này mà tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung trong tay nhân dân; nhân dân trao cho người đại diện là các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực ấy là quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì không có sự phân chia quyền lực, nên từ góc độ này thì ở Việt Nam không có quyền tư pháp theo nghĩa mà nhiều nước trên thế giới hiện nay đang quan niệm.
Khoản 2, Điều 102, Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử. So với thời kỳ trước Hiến pháp năm 2013 thì quyền tư pháp và cơ quan tư pháp đã được định hình và thu hẹp phạm vi, dẫn đến những đổi mới trong nhận thức về quyền tư pháp ở Việt Nam.
Trên thực tế đang có những cách hiểu khác nhau về quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục giải quyết như: Quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 có nội hàm thế nào? Quyền xét xử được giới hạn đến đâu và có mối liên hệ thế nào với quyền điều tra, quyền truy tố, quyền thi hành án? Những cơ quan được xác định là cơ quan tư pháp (theo chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện qua các nghị quyết của Bộ Chính trị) nay có còn là cơ quan tư pháp theo quy định của Hiến pháp năm 2013 hay không? Hiện đang có các ý kiến, quan điểm khác nhau, trong đó bao gồm cả cách hiểu điều luật quy định về những vấn đề này. Có ý kiến cho rằng, Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhưng điều đó không khẳng định chỉ có Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp hoặc quyền tư pháp ở Việt Nam có nghĩa rất rộng, không phải chỉ là quyền xét xử mà còn những quyền khác như quyền điều tra, quyền truy tố, quyền thi hành án như đã được nêu trong các nghị quyết của Đảng hoặc nếu chỉ có Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp thì những cơ quan được xác định là cơ quan tư pháp trong các nghị quyết của Đảng và trong nhận thức của cơ quan nhà nước, người dân, nay sẽ là những cơ quan gì, có vai trò thế nào trong bộ máy nhà nước…
Những ý kiến, quan điểm này phản ánh quá trình phát triển trong tư duy lập pháp của Việt Nam và là sự phát triển bình thường của quá trình nhận thức. Với đặc điểm tổ chức các cơ quan nhà nước theo nguyên tắc tập trung thống nhất thì việc phân định một cách rõ ràng cơ quan tư pháp với các cơ quan khác liên quan đến hoạt động tư pháp, dù chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đã được quy định trong Hiến pháp hoặc các văn bản pháp luật khác, cần thời gian để đạt được sự thống nhất trong nhận thức, trong hoạt động của các cơ quan liên quan đến tư pháp, phù hợp với tinh thần mới của Hiến pháp năm 2013, tiếp cận được với quan niệm về quyền tư pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Việc hiểu đúng về quyền tư pháp và cơ quan tư pháp trong bối cảnh Hiến pháp mới đã được ban hành không phải chỉ là những vấn đề lý luận mà có tác động trực tiếp tới định hướng cải cách tư pháp và việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay.

Cơ quan tư pháp là gì?

Cơ quan tư pháp (hay hệ thống tư pháp) là một hệ thống tòa án để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp, theo chủ thuyết tam quyền phân lập, cơ quan tư pháp là phân nhánh chính của một chính thể, có trách nhiệm chính về việc diễn giải luật.

Các cơ quan tư pháp ở nước ta gồm:

– Thứ nhất: Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.

Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân:

Theo khoản 3, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:

“ Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Do đó, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là:

+ Bảo vệ công lý;

+ Bảo vệ quyền con người, quyền công dân;

+ Bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân có đặc điểm khác so với việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước khác như:

+ Chỉ có Tòa án nhân dân mới có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Khi xét xử Tòa án đều nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bản án và các quyết định của Tòa án mang tính quyền lực nhà nước.

+ Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân mang tính bắt buộc đối với bị cáo hoặc các đương sự cho nên hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân theo các thủ tục tố tụng nghiêm ngặt.

+ Việc xét xử của Tòa án nhân dân có tính quyết định cuối cùng khi giải quyết các vụ việc pháp lý. Trong nhiều trường hợp, sau khi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đã giải quyết nhưng đương sự không đồng ý với cách giải quyết đó và yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết, Tòa án nhân dân có thể xem xét và quyết định. Quyết định của Tòa án nhân dân có thể thay thế cho các quyết định đã được giải quyết trước đó và quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng.

+ Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hoạt động áp dụng pháp luật.

– Thứ hai: Viện kiểm sát nhân dân

Theo điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định:

“ 1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.

3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”

Theo quy định trên thì Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về vấn đề Tư pháp là gì? Chúng tôihi vọng rằng những chia sẻ từ bài viết sẽ hữu ích và giúp quý bạn đọc hiểu rõ được nội dung này.

Đánh giá bài viết:
5/5 - (7 bình chọn)

ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN QUÝ KHÁCH CÓ THỂ CHỌN HÌNH THỨC SAU

BÀI VIẾT MỚI NHẤT

Em có cảm nhận gì về vẻ đẹp của người phụ nữ trong tà áo dài?

Chiếc áo dài thể hiện phong cách tế nhị , kín đáo và vẻ đẹp dịu dàng của người phụ nữ Việt...

Ban quản trị nhà chung cư là gì?

Đối với nhà chung cư có nhiều chủ sở hữu thì thành viên Ban quản trị nhà chung cư phải là chủ sở hữu và đang sử dụng nhà chung cư đó, trường hợp người đang sử dụng căn hộ hoặc phần diện tích khác trong nhà chung cư không phải là chủ sở hữu nếu được chủ sở hữu căn hộ hoặc phần diện tích khác đó ủy quyền tham dự hội nghị nhà chung cư thì có thể được bầu làm thành viên...

Thanh tra viên là gì? Mức lương của thanh tra viên

Thanh tra viên chính được hưởng phụ cấp trách nhiệm theo nghề Thanh tra bằng 20% mức lương cơ bản hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu...

Ý kiến pháp lý là gì?

Ý kiến pháp lý quy định tại Nghị định 51/2015/NĐ-CP là văn bản do Bộ Tư pháp cấp về tính hợp pháp của văn bản được xem xét cấp ý kiến pháp...

Kiều bào là gì?

Kiều bào là từ người trong nước dùng để gọi đồng bào của mình đang sống, làm việc hoặc học tập ở nước...

Xem thêm

Liên hệ với Luật Hoàng Phi