Nguyên tắc sử dụng hợp lý là gì?

  • Tác giả: Phạm Thị Kim Oanh |
  • Cập nhật: 04/03/2024 |
  • WIKI hỏi đáp |
  • 2562 Lượt xem
5/5 - (5 bình chọn)

Nguyên tắc sử dụng hợp lý trong tiếng Anh còn gọi là fair use. Đây là một học thuyết trong pháp luật Hoa Kỳ cho phép sử dụng một cách hạn chế các tài liệu, tác phẩm có bản quyền mà không cần phải có sự cho phép từ người nắm giữ bản quyền.

Tuy nhiên, để xác định xem liệu việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp cụ thể có phải là sử dụng hợp lý hay không cần căn cứ vào các yếu tố nào? Trong bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ giải đáp những thắc mắc của bạn đọc liên quan tới nguyên tắc sử dụng hợp lý là gì?

Nguyên tắc sử dụng hợp lý là gì?

Nguyên tắc sử dụng hợp lý (fair use) là quyền sử dụng một tác phẩm có bản quyền trong những điều kiện nhất định mà không cần có sự cho phép của tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả.

Học thuyết này giúp ngăn chặn việc áp dụng luật bản quyền một cách cứng nhắc, ngăn cản tính sáng tạo mà pháp luật khuyến khích. Sử dụng hợp lý cho phép một người sử dụng và xây dựng tác phẩm mới dựa trên các tác phẩm trước đó mà không tước đoạt quyền kiểm soát và hưởng lợi ích từ những tác phẩm đó của tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả.

>>>>>>> Tham khảo bài viết: Đăng ký bản quyền tác giả

 

Các yếu tố cần xem xét để xác định là “Sử dụng hợp lý”

Sau khi tìm hiểu về nguyên tắc sử dụng hợp lý là gì?, sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu thêm về các yếu tố cần xem xét để xác định về sử dụng hợp lý.

Việc sử dụng hợp pháp là một trong những giới hạn của luật bản quyền nhằm hướng đến cân bằng lợi ích của người nắm giữ bản quyền và lợi ích của xã hội, của cộng đồng trong việc phân phối và sử dụng rộng rãi hơn các sản phầm của lao động sáng tạo bằng cách cho phép việc sử dụng được coi là xâm phạm các tác phẩm đã được bảo hộ nhưng sử dụng ở mức độ hạn chế thì không coi là xâm phạm.

Để xác định xem liệu việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp cụ thể có phải là sử dụng hợp lý hay không cần xem xét các yếu tố sau:

Thứ nhất: Mục đích và đặc điểm của việc sử dụng, bao gồm việc sử dụng đó có tính chất thương mại không hay là chỉ nhằm mục đích giáo dục phi lợi nhuận. Việc sử dụng mang tính thương mại hoặc lợi nhuận ít có khả năng được coi là sử dụng hợp lý.

Thứ hai: Bản chất của tác phẩm được bảo hộ. Theo đó, việc sử dụng các tác phẩm thực sự nhằm hướng dẫn hoặc là cơ sở dữ liệu có nhiều khả năng là sử dụng hợp lý hơn so với việc sử dụng các tác phẩm mang tính sáng tạo cao như thơ hoặc phim khoa học viễn tưởng.

Thứ ba: Số lượng và phần thực chất được sử dụng so với toàn bộ tác phẩm được bảo hộ. Nghĩa là việc sử dụng các phần nhỏ của tác phẩm có bản quyền có nhiều khả năng được coi là sử dụng hợp lý hơn so với việc sao chép toàn bộ. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, ngay cả khi sử dụng một phần nhỏ, nếu phần được sử dụng là một đoạn quan trọng nhất, trọng tâm của tác phẩm, thì việc sử dụng đó ít có khả năng là sử dụng hợp lý.

Thứ tư: Ảnh hưởng của việc sử dụng đó đối với thị trường tiềm năng hoặc đối với giá trị của tác phẩm được bảo hộ. Việc sử dụng có thay thế tác phẩm gốc đến mức người khác dừng mua hoặc xem tác phẩm có bản quyền không?Nếu có, hành động này ít có khả năng được coi là sử dụng hợp lý.

Như vậy, nguyên tắc sử dụng hợp lý “fair use” có thể được hiểu là nguyên tắc cho phép sử dụng một tác phẩm đã được pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả bảo hộ trong giới hạn mà không cần sự cho phép của tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả, sự sử dụng hợp lí này không được xâm phạm các quyền nhân thân của tác giả/ chủ sở hữu quyền tác giả[1].

Nguyên tắc sử dụng hợp lý (Fair use) theo quy định của Pháp luật Việt Nam

Để thực hiện nguyên tắc cân bằng lợi ích, luật pháp về quyền sở hữu trí tuệ của quốc tế và của nhiều nước đã tạo nên một số quy định thường được gọi là nguyên tắc sử dụng hợp lý “fair use” – quyền của mọi người sử dụng tài liệu có bản quyền không phải xin phép, không phải trả nhuận bút, thù lao trong một số trường hợp. Trong pháp luật Việt Nam, vấn đề này được quy định tại Điều 25, Điều 26  Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009.

>>>>> Tham khảo chi tiết: Nguyên tắc Fair use là gì?

Giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả 

Giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả là một nguyên tắc pháp lý trong luật pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của công chúng. Trong pháp luật Việt Nam, nguyên tắc pháp lý giới hạn và ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả được quy định tại Điều 25, Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009. Theo đó, hành vi làm bản sao hoặc sử dụng bản sao tác phẩm văn học nghệ thuật khoa học đã công bố được thực hiện bởi cá nhân hoặc tổ chức trong một số trường hợp đặc biệt với những điều kiện nhất định thì không bị coi là xâm phạm quyền tác giả ngay cả khi tác giả hoặc chủ thể quyền tác giả không đồng ý

Việc bên thứ ba (cá nhân hoặc tổ chức), ngay cả khi không có sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả, sử dụng hoặc sao chép tác phẩm đã công bố trong một số tình huống sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả nhưng sẽ bị buộc phải trả tiền nhuận bút hoặc thù lao cho tác giả hoặc chủ thể quyền tác giả. Trường hợp này được quy định ở Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ được gọi là giới hạn không xâm phạm quyền tác giả. Theo đó, Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:

– Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà án theo quy định của pháp luật.

– Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.

– Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm trong các trường hợp nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

Lưu ý: Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.

“Sử dụng hợp lý” theo pháp luật Việt Nam 

Khác với giới hạn không xâm phạm quyền tác giả quy định tại  Điều 26 nêu trên, ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả được quy định tại Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 dưới đây được gọi là “Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép và cũng không phải trả tiền nhuận bút, thù lao”. Theo Điều 25, các trường hợp đó bao gồm:

– Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại;

– Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc mình hoạt trong tác phẩm của mình. Tuy nhiên, thế nào là trích dẫn hợp lý? Được coi là trích dẫn hợp lý ki đáp ứng đủ các điều kiện sau: (i) Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình; (ii) Phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.

– Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;

– Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;

– Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, việc sao chép này không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm với công chúng, kể cả bản kỹ thuật số.

– Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

– Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;

– Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;

– Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;

– Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.

Lưu ý: Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm trong các trường hợp nêu trên không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép và cũng không phải trả tiền nhuận bút, thù lao không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.

Trên đây là nội dung tổng hợp Nguyên tắc sử dụng hợp lý là gì? mà chúng tôi gửi tới bạn đọc. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến nguyên tắc trên hay các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, vui lòng liên hệ với chúng tôi để hỗ trợ

5/5 - (5 bình chọn)